Chánh kinh:
Phật cáo A Nan: - A Di Đà Phật oai thần quang minh tối tôn đệ nhất. Thập phương chư Phật sở bất năng cập, biến chiếu Đông phương Hằng sa Phật sát. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị. Nhược hóa đảnh thượng viên quang, hoặc nhất, nhị, tam, tứ do-tuần, hoặc bách thiên vạn ức do-tuần. Chư Phật quang minh hoặc chiếu nhất, nhị Phật sát, hoặc chiếu bách thiên Phật sát, duy A Di Đà Phật, quang minh phổ chiếu vô lượng vô biên vô số Phật sát. Chư Phật quang minh sở chiếu viễn cận, bổn kỳ tiền thế cầu đạo, sở nguyện công đức đại tiểu bất đồng. Chí tác Phật thời, các tự đắc chi. Tự tại sở tác, bất vi dự kế. A Di Đà Phật, quang minh thiện hảo, thắng ư nhật nguyệt chi minh, thiên ức vạn bội, quang trung cực tôn, Phật trung chi vương.
Phật bảo A Nan:
- Oai thần quang minh của A Di Ðà Phật tối tôn đệ nhất, thập phương chư Phật chẳng thể sánh bằng, chiếu khắp Hằng sa cõi Phật trong phương Ðông. Trong các phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên, dưới cũng giống như thế.
Viên quang từ trên đảnh Ngài hóa ra thì hoặc là [chiếu xa] một, hai, ba, bốn do-tuần, hoặc là trăm ngàn vạn ức do-tuần. Quang minh của chư Phật hoặc chiếu thấu một, hai cõi Phật, hoặc chiếu trăm ngàn cõi Phật. Chỉ riêng quang minh của A Di Ðà Phật chiếu trọn vô lượng vô biên vô số cõi Phật.
Quang minh của chư Phật chiếu xa hay gần vốn là do trong đời trước khi cầu đạo đã nguyện được công đức lớn hay nhỏ sai khác. Ðến khi thành Phật, mỗi vị tự đạt được, tự tại thành tựu chẳng thể tính trước. Quang minh của A Di Ðà Phật tốt lành, vượt trội ánh sáng của mặt trời, mặt trăng ngàn ức vạn lần, là tôn quý nhất trong các quang minh, là vua trong các đức Phật.
Giải:
Phẩm này nói về sự thành tựu của nguyện mười ba “quang minh vô lượng” và nguyện mười bốn “được quang minh chiếu thấu liền được an lạc”. Nguyện mười ba là “quang minh vô lượng”, “vượt trỗi chư Phật”. Do nguyện này được thành tựu nên “A Di Đà Phật oai thần quang minh tối tôn đệ nhất. Thập phương chư Phật sở bất năng cập” (Oai thần, quang minh của A Di Ðà Phật tối tôn đệ nhất. Mười phương chư Phật chẳng thể sánh bằng).
Phật Quả bình đẳng sao quang minh lại sai khác? Sư Vọng Tây đáp: “Thường đồng, thường biệt: Diệu đức của chư Phật xét về nội chứng tuy tương đồng, nhưng do bổn nguyện sai khác nên quang minh có hơn, kém”.
Ðấy chính là ý nghĩa của câu “bổn kỳ tiền thế cầu đạo sở nguyện công đức đại tiểu bất đồng” (vốn là do đời trước lúc cầu đạo đã nguyện được công đức có lớn hay nhỏ sai khác).
“Hằng sa” là cát con sông Hằng (Gange) ở Ấn Ðộ. “Tứ duy” (bốn góc) là bốn phương ở giữa các phương Ðông, Tây, Nam, Bắc. “Đảnh thượng viên quang” (viên quang từ trên đảnh đầu): Phật có đảnh quang và thân quang, “đảnh thượng viên quang” chỉ đảnh quang.
Các câu từ “nhất do-tuần” đến “bách thiên Phật sát” (trăm ngàn cõi Phật) là dùng các cách so sánh để diễn tả quang minh của Phật chiếu xa hay gần. Câu “duy A Di Đà Phật quang minh phổ chiếu vô lượng vô biên vô số Phật sát” (chỉ riêng A Di Ðà Phật quang minh chiếu trọn vô lượng vô biên vô số cõi Phật) diễn tả sự thù thắng độc đáo của quang minh của A Di Ðà Phật nhằm chứng minh quang minh của Phật tôn quý bậc nhất, vượt trỗi mười phương. Ðấy chính là nội dung thứ nhất của phẩm này.
Tiếp đó, kinh trình bày nguyên nhân tại sao quang minh của Phật Di Ðà lại đặc biệt thù thắng nhất. Phẩm trước đã nói: “Thanh tịnh trang nghiêm siêu du thập phương” (Thanh tịnh trang nghiêm vượt trỗi mười phương), phẩm này lại bảo: “Thập phương chư Phật, sở bất năng cập” (Mười phương chư Phật chẳng thể sánh bằng). Tiếp đó lại bảo: “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Tôn quý nhất trong các quang minh, vua trong các đức Phật). Trong pháp bình đẳng mà lại có những sự sai biệt như vậy là vì trong đời trước khi cầu đạo [các vị Phật] đã có những bổn nguyện sai khác.
Ðại nguyện thứ mười ba của Phật Di Ðà là: “Ngã tác Phật thời, quang minh vô lượng, phổ chiếu thập phương, tuyệt thắng chư Phật, thắng ư nhật nguyệt chi minh thiên vạn ức bội” (Lúc tôi thành Phật, quang minh vô lượng chiếu khắp mười phương vượt xa chư Phật, hơn cả quang minh của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần). Bởi vậy nên “chí tác Phật thời, các tự đắc chi, tự tại sở tác, bất vi dự kế” (đến khi thành Phật, mỗi vị tự đạt được, tự tại thành tựu, chẳng thể tính trước), nghĩa là: Đến khi thành Phật, mỗi vị đều đúng như bổn nguyện mà hiện quang minh. Ðấy đều là việc tự nhiên thành tựu, chứ chẳng thể do mình muốn hoạch định hoặc an bài được!
Vì nhân quả hệt như nhau nên “thắng ư nhật nguyệt chi minh, thiên ức vạn bội, quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (quang minh trội hơn ánh sáng của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần, là tôn quý nhất trong các quang minh, là vua trong các đức Phật).
Ảnh minh họa: "Này Xá-lợi-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao Ðức Phật kia có tên là A Di Ðà? Này Xá-lợi-phất, Ðức Phật kia có ánh sáng vô lượng, chiếu suốt mười phương cõi nước không bị chướng ngại, cho nên có tên là A Di Ðà. Lại này Xá-lợi-phất, mạng sống của Phật kia và nhân dân của Ngài, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cho nên có tên là A Di Ðà."
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Chúng ta đến với Phẩm 12. Quang Minh Biến Chiếu. Phẩm trước Quốc Giới Nghiêm Tịnh là nói về Y báo, phẩm này và phẩm tiếp theo Phật nói về Chánh báo trang nghiêm nơi cõi Cực Lạc, cụ thể phẩm này nói về quang minh của Phật. Chúng ta đọc phần chú giải trích lục của các Ngài để hiểu rõ hơn nghĩa lý đoạn Kinh văn này.
"Oai thần quang minh của A Di Ðà Phật tối tôn đệ nhất, thập phương chư Phật chẳng thể sánh bằng..." đó là do hạnh nguyện của Phật đã thành tựu [Nguyện 13 “quang minh vô lượng”, “vượt trỗi chư Phật”]. Khi còn tu nhân phát ra hạnh nguyện thế nào thì khi thành tựu Phật quả sẽ có được như thế ấy. Dĩ nhiên là hạnh nguyện càng lớn lao thì công sức, thời gian tu tập tích lũy công đức phải càng lớn tương ưng như thế, chứ chẳng phải nói muốn [có như thế] là có được ngay. Phật A Di Đà Ngài phát ra hạnh nguyện thù thắng như thế thì chắc chắn thời gian, công sức, định lực công phu Ngài bỏ ra phải vượt trỗi các vị Phật khác, đó là điều tất nhiên.
Thật sự Phật phát ra hạnh nguyện thù thắng như thế [Quang minh vô lượng, chiếu khắp mười phương, vượt trỗi chư Phật], đây là điều mà không một Chư Phật nào khác có được, đó là duy nhất. Cho nên Phật Thích Ca nói là "tôn quý nhất trong các quang minh, là vua trong các đức Phật". Vì sao Phật A Di Đà lại phát ra hạnh nguyện thù thắng, vượt trỗi, bao trùm tất cả như thế? Đó là do Ngài muốn cứu độ tất cả chúng sanh trong khắp Pháp giới, chẳng chừa một chúng sanh nào, dù ở nơi đâu, xa xôi cỡ nào đi nữa [cũng không vượt ra ngoài tầm quang minh phổ chiếu của Ngài]. Chứ chẳng phải Ngài đặt ra bất cứ điều gì để nhằm mục đích 'canh phòng' hạn chế chúng sanh trở về đâu nhé, suy nghĩ như thế là còn mang tư tưởng tự lực đưa vào đây, hoàn toàn không phù hợp chút nào cả.
Cho nên, như chúng ta đã cùng học tập nhiều lần, để Pháp môn này trở thành "Bình Đẳng Giác Kinh" đó chẳng phải là điều đơn giản đâu [mà Chư Phật nào cũng thực hiện được]. Bởi điều này muốn thực hiện được thì phải chẳng để bỏ sót bất cứ chúng sanh nào, bất luận ở nơi đâu, lúc nào, cảnh giới ra sao. Như thế mới gọi là Bình Đẳng được. Chứ còn nếu như có chúng sanh được cứu độ có chúng sanh không thì chẳng thể được gọi là Bình đẳng, chẳng thể được gọi là phổ độ khắp chúng sanh. Cho dù bỏ sót một vị thôi cũng đã là không còn Bình đẳng, trở thành bất Bình đẳng rồi. Bởi thế nên các hạnh nguyện của Ngài phải tương ưng, khế hợp đồng bộ nhau mới được. Chẳng hạn, trong Nguyện 13 "Quang minh vô lương, chiếu khắp mười phương", trong Nguyện 18 đó chính là chỗ "nãi chí thập niệm", tức lúc lâm chung chỉ còn kịp niệm một niệm hay mười niệm cũng được cứu độ. Tức điều kiện tối thiểu nhất, không còn thấp hơn [vẫn được cứu độ]. Bởi chỉ có như thế thì mới cứu độ tất cả khắp chúng sanh trong Pháp giới được. Chứ còn nếu 'nhích' lên một tí, thì lỡ như những trường hợp thấp hơn [không còn kịp niệm được như thế] thì làm sao thực hiện được, như thế thì làm sao phổ độ khắp chúng sanh, làm sao còn là "Bình Đẳng Giác Kinh" được nữa!
Cho nên, chúng ta thấy ở đây có sự trùng hợp về thời gian, như hạng bét kia lâm chung mới bắt gặp Chánh Pháp, thọ mạng chỉ còn tính bằng giây, chỉ còn có thể niệm được một niệm, vài niệm, hay mười niệm..., đó là do thời gian [thọ mạng] bức bách chỉ còn như thế nên chỉ niệm được như thế, chứ chẳng phải họ cố đợi tới lúc đó [lâm chung] mới 'bắt đầu' niệm vài tiếng rồi vãng sanh. Cho nên có sự trùng hợp như thế, điều này khiến mọi người cứ lầm tưởng mười niệm này là mười niệm dành cho lúc cuối lâm chung, nhưng thật ra đó là do hoàn cảnh nhân duyên họ phải thành ra như thế [lúc lâm chung, những giây phút cuối cùng]. Cho nên Đức Phật Ngài muốn cứu độ tất cả chúng sanh thì bắt buộc phải cứu được hạng bét thấp nhất này [hoàn cảnh nhân duyên ngặt nghèo nhất này] thì mới được, như thế thì tất cả sẽ đều cùng có phần, bời những thứ hạng khác chắc chắn sẽ niệm nhiều hơn nên đương nhiên cũng có phần. Chúng ta phải phân tích kỹ như thế để thấy được vì sao có cụm từ "nãi chí thập niệm" này và nó mang ý nghĩa gì! Nếu không thì kiểu gì chúng ta cũng lầm lẫn mười niệm này là mười niệm dành cho lúc lâm chung.
Như vậy thì cái "chí tâm tin ưa" trong Kinh nói đâu rồi, nảy giờ chúng ta chẳng thấy đề cập đến? Như hạng bét kia lâm chung bắt gặp Chánh Pháp, phát khởi lên được Tín tâm chân thật [tức Chí tâm tin ưa], niệm mười tiếng [hay chỉ một tiếng] cũng được Phật rước. Vậy còn những hạng khác niệm nhiều hơn rất nhiều, ví dụ hàng ngày niệm cả mấy vạn, vậy thì cái tâm lực gọi là "chí tâm tin ưa" ở đâu, để đúng như trong Kinh giáo yêu cầu? Dạ vâng, như bên trên đã phân tích, do niệm một niệm hay mười niệm cũng thành tựu [của hạng bét kia] cho nên với những thứ hạng khác, niệm nhiều hơn thì cũng chắc chắn thành tựu, bởi niệm ít hơn còn thành tựu thì niệm nhiều sao không thành tựu được? Nếu mà không thành tựu [không được Phật rước] thì chắc chắn Bổn Nguyện là hư dối mất! Hư dối chỗ nào? Đó chính là chỗ "nãi chí thập niệm" vậy, bởi Phật nói "dẫu chỉ mười niệm" cũng được vãng sanh cơ mà, đằng này niệm nhiều hơn lại chẳng được, như thế thì chỗ "nãi chí thập niệm" chắc chắn hư dối, không thật! Mà như chúng ta biết rồi, Bổn Nguyện thì không bao giờ hư dối, vì Phật đã thành Phật. Bởi vậy cho nên chắc chắn Phật phải rước ta, không thể khác được! Dạ vâng, đó chính là cơ sở để gầy dựng cái tâm lực "chí tâm tin ưa" đấy, tức bất sanh nghi hoặc, rằng không thể khác được! Còn ai cho rằng như: Nói vậy chứ, phải thế này thế nọ thế kia nữa, hay 'lý thuyết vậy thôi, ra thực tế sẽ thấy thế nào', hoặc giả 'chúng sanh niệm Phật quá trời nhưng đâu phải ai cũng được Phật rước, vậy là thế nào đây?'... Còn những suy nghĩ như thế tức là chưa, cần ra sức gầy dựng thêm. Bởi cơ sở lý thuyết [Kinh giáo] là thế, nhưng chúng sanh có chịu nương theo để gầy dựng phát khởi Tín tâm hay không đó là chuyện khác nữa. Ví như họ cứ một mực tìm mọi lý lẽ [dù đúng hay sai] để phản bác lại, hoặc giả họ dẫn những kết quả từ thực tế chúng sanh [thành tựa hay chẳng thành tựu] để 'phản biện' lại thì thôi... đành chịu! Ví như một người hành Pháp nhưng tâm chẳng tin Pháp [tức tâm nằm ngoài Pháp ấy] như thế thì làm sao gọi là hành đúng như Pháp ấy cho được, mà hành không đúng như Pháp thì làm sao thành tựu được Pháp, rồi đem [những trường hợp như thế] ra để 'đối chứng' cái Pháp ấy, rằng sao hành Pháp 'quá trời' [rất tinh tấn] mà lại ra như vậy! Cho nên vấn đề gầy dựng Tín tâm của hành giả còn phụ thuộc ở 'tâm lý' của hành giả nữa, nếu có tâm lý cố gắng 'để tin' thì sẽ không khó phát khởi Tín tâm hoặc giả không chóng thì chày cũng đạt được, còn một khi mang tâm lý 'cố gắng' phản bác để không tin [để hành theo Pháp tự lực, Pháp Biên Địa gì đó] thì chắc chắn cũng dễ dàng 'đạt được' điều đó, tức chẳng tin vậy. Cho nên nhiều khi nó phụ thuộc nhiều vào cách thức chọn lựa con đường để đi của hành giả vậy.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 12. Quang Minh Biến Chiếu (trích lục)
Ngài Hoàng Niệm Tổ