Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện bốn mươi sáu: Đắc đà-ra-ni; nguyện bốn mươi bảy: Nghe danh đắc Nhẫn; nguyện bốn mươi tám: Chứng Bất Thoái ngay trong hiện đời)
Giải:
(...)
Nguyện thứ bốn tám là “ngay trong hiện tại chứng được bất thoái”. Lời nguyện như sau: “Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác” (Với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác).
Bất Thoái Chuyển nghĩa là những công đức thiện căn mình tu tập ngày càng tăng tấn, chẳng hề lui sụt, mất đi. Bất Thoái Chuyển gọi tắt là Bất Thoái, gọi theo tiếng Phạn là A Bệ Bạt Trí. Hạnh nguyện Bồ Tát tuy khó phát nhưng dễ bị thoái thất. Theo kinh Nhân Vương, bậc Bồ Tát thuộc Tín vị trong Biệt Giáo được gọi là Khinh Mao Bồ Tát vì giống như vật bị gió thổi bay. Kinh Niết Bàn bản Nam cũng chép: “Vô lượng chúng sanh phát A Nậu Bồ Đề tâm, kiến thiểu vi duyên, ư A Nậu Bồ Đề, tức tiện động chuyển, như thủy trung nguyệt, thủy động tức động” (Vô lượng chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề nhưng thấy chút duyên trái nghịch liền thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề như ánh trăng trong nước, nước vừa xao động, ánh trăng liền động).
Kinh còn ví von: Ví như cá mẹ sanh nhiều cá con, nhưng khôn lớn chỉ được chút ít; như cây Am La (cây xoài) hoa nhiều, trái ít. Chúng sanh phát tâm tuy là vô lượng, nhưng người thành tựu quá ít ỏi chẳng đáng nói đến; kinh chép: “Ngư tử, Am La hoa, Bồ Tát sơ phát tâm, tam sự nhân trung đa, cập kỳ kết quả thiểu” (Cá con, hoa Am La, Bồ Tát sơ phát tâm, ba thứ ấy nhân thì nhiều nhưng đến khi kết quả lại ít).
Kinh Thập Trụ Bồ Tát Ðoạn Kết cũng nói: “Thời Xá Lợi Phất cáo lai hội Bồ Tát: - Ngã nẵng tích, hoặc tùng Nhất Trụ tấn chí Ngũ Trụ, hoàn phục thoái đọa tại Sơ Trụ, phục tùng Sơ Trụ chí Ngũ Lục Trụ, như thị kinh lục thập kiếp trung, cánh bất năng đáo Bất Thoái Chuyển” (Khi ấy, ngài Xá Lợi Phất bảo các Bồ Tát đến dự hội: - Tôi khi xưa từ Nhất Trụ đạt tới Ngũ Trụ rồi lại thoái chuyển xuống Sơ Trụ, rồi lại từ Sơ Trụ đạt đến Ngũ Trụ, Lục Trụ; trải qua sáu mươi kiếp như thế trọn chẳng đạt đến bậc Bất Thoái Chuyển).
Ấy là vì vô lượng Bồ Tát hễ chưa đạt địa vị Bất Thoái, dẫu cực kỳ dũng mãnh như cứu đầu cháy, nhưng bởi chướng duyên bời bời dồn tới nên lần lần bị thoái chuyển, đến nỗi người học đạo nhiều như lông bò, kẻ đắc đạo hiếm tựa vảy lân. Khi còn tu nhân, Phật Di Ðà thương xót họ nhọc khổ nên phát vô thượng nguyện. Do oai đức của Phật nên người được nghe danh hiệu liền chứng đắc ba thứ Nhẫn, chứng được Bất Thoái Chuyển. Vốn ở địa vị thoái chuyển, nhưng nương theo nguyện lực của Phật nên chỉ tiến chẳng lùi, mau chứng được Bồ Ðề. Ðây thật là nỗi mừng rỡ lớn.
Lời bình của Hội Sớ: “Nguyện lực khó nghĩ bàn, hễ được một thứ thì sẽ được hết thảy mọi thứ vì cùng một lúc được đầy đủ Bất Thoái và Tam Nhẫn” thật đã nêu rõ diệu dụng của phương tiện rốt ráo phát xuất từ Nhất Thừa nguyện hải của Phật Di Ðà một cách sâu xa.
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận lại nói: “Nếu ai muốn mau chóng đạt đến địa vị Bồ Tát Chuyển thì nên dùng tâm cung kính chấp trì danh hiệu”.
Kinh Tiểu Bổn cũng nói: “Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng, giai đắc Bất Thoái Chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nếu có người đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh về cõi Phật A Di Ðà thì những kẻ ấy đều được bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Sách Hội Sớ cũng nói: “Tam Nhẫn, Bất Thoái đều nằm trong danh hiệu. Khi xưng danh, do danh và nghĩa chẳng rời nhau nên liền tự đạt được những đức như thế”.
Rõ ràng, nếu được nghe danh hiệu, chỉ cần Tín, Nguyện, Trì Danh thì ắt có thể ngay trong hiện đời chứng được Bất Thoái. Diệu đức của Di Ðà Nhất Thừa nguyện hải thật khó nghĩ suy nổi, sáu chữ hồng danh là phương tiện rốt ráo. Bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng nhiếp độ chúng sanh, nguyện nào cũng hiển thị lẽ chân thật. Phân ra thì đến bốn mươi tám nguyện, hợp lại chỉ là một pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú: chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân.
Ảnh minh họa: "Này Xá-lợi-phất, nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về nước của Phật A Di Ðà thì những người đó đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở nước Phật kia, những người này hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh. Cho nên này Xá-lợi-phất, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn, nếu ai có lòng tin hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước kia."
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Đoạn trích lược chú giải bên trên dành cho lời Nguyện cuối cùng "Chứng Bất Thoái ngay trong hiện đời". Các vị Bồ Tát thập phương mà nghe danh hiệu Phât thì sẽ chứng được Bất Thoái ngay trong hiện đời [tức A Bệ Bạt Trí, tương đương địa vị Bát Địa Bồ Tát trở lên]. Tuy nhiên, như đã từng đề cập, cho dù chứng đạt Bất Thoái đi nữa, nhưng nếu không phát nguyện hồi hướng cầu sanh về Tịnh Độ thì cũng chưa chắc thành Phật được. Tức là tiến tu đến một mức nào đó rồi cứ 'day dưa' mãi thôi, không cách gì tiến lên được nữa, không phải ai cũng có thể tự vượt qua được ngưỡng này, tức là phá trừ được phẩm vô minh cuối cùng, để chứng đắc quả vị Phật. Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta, cùng Bồ Tát Di Lặc đương lai hạ sanh, là những vị đã và sẽ làm được điều này vậy. Tức là chứng đắc Phật quả bên ngoài thế giới Cực Lạc. Nói chung là rất nhiều, vô số, nhưng không phải là tất cả [các vị Bất Thoái] đều có thể làm được. Còn các vị chẳng được nghe [niệm] danh hiệu Phật thì thôi, 'trồi lên trụt xuống' không biết bao nhiêu bận mà nói, chứ chẳng phải được 'đứng yên một chỗ' không thôi đâu, dẫu cho là hàng đại Bồ Tát đi nữa. Nên có đoạn Kinh về Ngài Xá Lợi Phất nói: “Thời Xá Lợi Phất cáo lai hội Bồ Tát: - Ngã nẵng tích, hoặc tùng Nhất Trụ tấn chí Ngũ Trụ, hoàn phục thoái đọa tại Sơ Trụ, phục tùng Sơ Trụ chí Ngũ Lục Trụ, như thị kinh lục thập kiếp trung, cánh bất năng đáo Bất Thoái Chuyển” (Khi ấy, ngài Xá Lợi Phất bảo các Bồ Tát đến dự hội: - Tôi khi xưa từ Nhất Trụ đạt tới Ngũ Trụ rồi lại thoái chuyển xuống Sơ Trụ, rồi lại từ Sơ Trụ đạt đến Ngũ Trụ, Lục Trụ; trải qua sáu mươi kiếp như thế trọn chẳng đạt đến bậc Bất Thoái Chuyển).
Bồ Tát thập phương nghe danh thì được Bất Thoái, còn chúng sanh [phàm phu] thập phương nghe danh thôi thì chưa đủ đâu, cần phải làm sao 'hội tụ' về thế giới Cực Lạc mới được. Cho nên chúng ta cần chăm chỉ học tập hành trì nương theo giáo pháp này để một đời này được trở về quê hương Cực Lạc, vừa chứng đạt Bất Thoái, vừa chắc chắn sẽ thành Phật.
Chúng ta tiếp tục dành chút thời gian để cùng học tập gầy dựng giữ gìn Tín tâm Nguyện tâm cho đến mức 'đạt yêu cầu' mới được. Trong Đại Nguyện thứ 18: "Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo...". Để gầy dựng Tín tâm chúng ta lấy nguyên văn lời Nguyện này để gầy dựng chăng? Như thế thì dài dòng, lại khó hiểu thì làm sao gầy dựng được. Chính điều này làm cho rất nhiều người bị 'kẹt lại' không phát khởi Tín tâm lên được. Thật ra nội dung tóm tắt của lời Nguyện này chỉ là đúng tên gọi của nó "Mười niệm ắt vãng sanh", chỉ có vậy. Còn những nội dung khác như "chí tâm tin ưa", "nguyện sanh cõi ta", đó là việc chúng sanh phải gầy dựng để có được [tức việc nhất định phải có]. Nguyên nhân do đâu? Do chúng sanh hãy còn là phàm phu, nên phải "chí tâm tin ưa" thì mới là Tín tâm chân thật, không phải Tín tâm hư giả, lúc thế này lúc thế khác. Hay nói cách khác là "nhất tâm" [tin tưởng], tức thường hằng, chẳng thay đổi. Cho nên "chí tâm" chính là "nhất tâm" vậy. Chúng ta lấy ví dụ, trong Kinh có nói, hàng Ngũ Nghịch thập ác [hay bất cứ hạng nào khác] lâm chung gặp thiện tri thức khai thị, phát khởi Tìn tâm, niệm mấy tiếng liền được vãng sanh. Đó cũng là dạng đạt được Chí tâm vậy, vì là trong 'quãng rất ngắn' chẳng thể lui sụt được, nên thành 'Nhất tâm". Cho nên các ca Hộ Niệm mà mới mới [hay chưa phát tâm], cộng với thiện căn sâu dày, được khai thị hộ niệm, rất dễ phát khởi Tín tâm chân thật, ra đi rất nhẹ nhàng tự tại, nhiều khi còn được báo trước ngày giờ nữa. Đó là do họ đã đạt được 'chí tâm', rồi 'nhất tâm tin tưởng' luôn, rồi hành trì, cho đến lúc cuối được Phật rước. Đó là những trường hợp gầy dựng trong 'quãng ngắn', buông bỏ muôn duyên, nên dễ đạt được [và duy trì] 'nhất tâm'. Chứ còn hành giả chúng ta đa phần còn trẻ khỏe, tuổi đời có thể hãy còn dài, đường đạo có thể còn lắm... 'chông gai thử thách', nếu chỉ gầy dựng nhắc nhở 'khơi khơi' như vậy thôi thì chẳng 'ăn thua' gì đâu! Ra ngoài đụng duyên đụng cảnh phản bác lại cái là 'thoái chuyển' ngay. Cho nên, cần phải y cứ Kinh giáo [và quan trọng là tin tưởng], để làm bằng chứng, làm chỗ nương tựa cho Tín tâm của mình, để dẫu đụng cảnh duyên gì, thời gian lâu xa ra sao, chúng ta vẫn có cơ sở vững chắc để mà 'nương cậy' vậy. Đấy chính là ý nghĩa của việc "nương tựa vào Bổn Nguyện" mà dụng công hành trì cả đời, như các Ngài hay chỉ dạy. Đó cũng chính là chúng ta đang y giáo phụng hành theo Tông chỉ tông yếu của Pháp môn vậy, "dùng Tín Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật". Được như thế thì việc thành tựu như các Ngài nói là hoàn toàn có thể 'đoán định' được, chỉ còn là thời gian lâu mau của một đời này mà thôi.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện
Ngài Hoàng Niệm Tổ