Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

NPSTD7

 

Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian. Lại phải cạn lòng thành, tột lòng kính, sanh tín, phát nguyện, niệm Phật cầu sanh Tây Phương để tu pháp xuất thế gian. Trong thế gian, học một tài, một nghề đều phải dốc hết toàn bộ tinh thần thì mới có thể thành được. Nay là phàm phu sát đất lại muốn ngay trong đời này siêu phàm nhập thánh liễu sanh thoát tử, há chẳng phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao nâng cao tinh thần mà thành được ư? Ý nghĩa của chữ Đức Chấn là như vậy đó. Nếu có thể mạnh mẽ dẹp dứt thì Danh tương ứng với Thật. Nếu không, chỉ là hữu danh vô thật! Đấy là do chính mình phạm lỗi không thể mạnh mẽ dứt dẹp, chứ không phải là Phật pháp chẳng thể lợi người vậy!

 

Cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh

2) Bệnh đã sắp phát ra, do nhờ Đại Sĩ che chở nên được lành, lẽ ra nên sốt sắng coi trọng việc ấy, tu trì pháp môn Tịnh Độ trọng yếu bậc nhất này, sao lại ơ hờ đi hỏi chuyện chẳng cần kíp? Rốt cuộc, chẳng qua cũng là cùng một điệu bộ với kẻ đi đường hỏi lối, [do vậy tôi] biết lòng tin các hạ đã nói ấy chỉ là lòng tin hời hợt bên ngoài, cái hạnh các hạ đã nói đó chính là hạnh vui chơi. Nếu thật sự lấy chuyện này làm chuyện bậc nhất trong đời người thì những gì được ẩn chứa bên trong sẽ lộ tướng ra bên ngoài, thoạt nhìn là biết ngay! Các hạ có câu hỏi thì đã phúc đáp, có yêu cầu [kinh sách] cũng đã gởi qua bưu điện. Quang già rồi, tinh lực chẳng đủ, từ rày chớ nên gởi thư tới nữa! Gởi đến sẽ không trả lời, một là do không rảnh rỗi để thù tiếp, hai là do bận bịu quá nhiều chuyện.
Thứ nhất, Tâm Kinh (bản dịch của ngài Huyền Trang) chính là bản dịch toát yếu, cho nên không có phần Chứng Tín Tự và phần kinh văn lưu thông. Nhưng bản dịch của ngài Bát Nhã và Lợi Ngôn đời Đường với bản dịch của ngài Thi Hộ đời Tống đều có cả.

Thứ hai, hết thảy kinh chú tuy có các loại do Phật nói hay Bồ Tát nói khác nhau, tuy do Bồ Tát nói nhưng cũng đã được Phật chứng minh thì đều có thể gọi là “Phật thuyết”. Ông cho đó là do đệ tử đức Phật trước thuật (người hỏi vốn dùng lầm chữ Trước thành chữ Bút), sao lại miệt thị kinh chú quá đáng vậy? Dùng cái tâm này để tụng kinh chú chắc chắn chẳng có sự cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn!
Thứ ba, Tu La (Asura), cõi này dịch là Phi Thiên, nghĩa là có phước báo trời nhưng không có đức của chư thiên. Do họ có phước nên cũng được xếp vào thiện đạo. Do họ sân hận, kiêu mạn, tranh đấu nên cũng bị xếp vào ác đạo, vì thiện - ác, tội - phước xen tạp vậy! Trong đời có kẻ tin Phật, nhưng thường lầm lạc tự nẩy sanh ý kiến, ôm lòng nghi báng. Nói về phần được của người ấy thì có gọi là bậc chánh tín, nhưng nói về chỗ mất của người ấy thì cũng gọi là kẻ tà mê.
Thứ tư, Sa Bà (Sahā) là tên chung của tam thiên đại thiên thế giới.

Thứ năm, “kết già phu tọa” (ngồi kết già): Trước hết dùng chân phải đè lên đùi trái, dùng chân trái đè lên đùi phải, gọi là “già phu”. Chữ Già (跏) vốn viết là chữ Gia (加), có nghĩa là hai mu bàn chân đâu vào nhau. Phu (趺) là mu bàn chân. Nhưng ngồi lâu thì có thể thay đổi trái và phải cho nhau, đừng chấp chặt phải luôn luôn như vậy. Nếu chẳng thể xếp cả hai chân thì chỉ cần dùng chân trái đè lên chân phải là được rồi. Cách này còn gọi là “bán gia” (thường đọc trại thành “bán già”).

Thứ sáu, “giường to cao rộng” [được nói đến trong Bát Quan Trai Giới] chính là giường dây của tăng nhân hành hạnh Đầu Đà ở Tây Vực. Nước ta không theo cách này, chỉ là chớ nên ngồi trên giường, sập quý trọng hiếm đẹp mà thôi. Loại giường dây này giống như bộ cương ngựa ngày nay, dùng dây bện thành, có thể mở ra hay xếp lại được. Cao chẳng quá một thước sáu tấc, rộng chẳng quá bốn thước. Thước ở đây là thước đời Châu, nhỏ hơn thước hiện thời hai tấc. Giường này không phải là giường để ngủ, mà là giường để tọa thiền.

Thứ bảy, “chỉ có đường tắt tu hành”. Đây chính là giáo nghĩa, có thể chiếu theo văn tự để hiểu. “Y theo như cũ đi nhiễu”, đây chính là ý nghĩa trong nhà Thiền, phải có chỗ ngộ thì mới biết triệt để được. Tào Lỗ Xuyên tự cho là bậc đại thông gia thông Tông thông Giáo còn hiểu lầm ý này. Các hạ muốn tôi giảng ý nghĩa này, đúng là lời hỏi giỡn chơi! Các hạ hãy buông xuống hết thảy tri kiến thừa thãi, nhất tâm niệm Phật, niệm cho đến khi tâm lẫn Phật đều mất cả rồi, sẽ tự phát ra một tràng cười to, hoàn toàn hiểu rõ. Khi chưa đạt đến, dẫu người khác có giảng cho vẫn chẳng biết được! Ví như đã đến điện Hàm Nguyên, mọi thứ trong điện ấy đều biết hết. Nếu vì người chưa đến đấy [mà nói] thì dù có nói rõ ràng, vẫn mờ mịt không biết y như cũ.

Những câu nói trong nhà Thiền đều nhằm dạy người khác tham cứu. Nếu hiểu theo ý nghĩa văn tự thì chẳng những không được lợi ích, mà còn có thể coi “hiểu lầm” là ngộ, tội ấy cực lớn. Dẫu ngộ thật sự nhưng liễu sanh thoát tử vẫn còn cách xa lắm! Do kẻ ấy chỉ cậy vào tự lực, phải là sau khi đại ngộ rồi, phiền não, Hoặc nghiệp đoạn sạch không còn sót gì thì mới liễu được. Nếu không, chẳng do đâu mà liễu được! Pháp môn Niệm Phật nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Căn tánh của các hạ cũng chỉ có thể học theo cách tu trì của hàng ngu phu ngu phụ. Nếu lầm lẫn bắt chước thân phận của Tào Lỗ Xuyên thì chẳng những liễu sanh tử trọn chẳng có phần mà còn thật sợ rằng đọa lạc ba ác đạo ắt đã sẵn phần! Vì sao vậy? Do “chưa được bảo là được, do chưa chứng nói là chứng”; do vậy, hoại loạn Phật pháp, khiến cho chúng sanh lầm lạc, nghi ngờ.

Thứ tám, những sách như Văn Sao v.v… gởi đi một gói, nếu chẳng hiềm là hèn kém, dở tệ, xin hãy đọc kỹ, hành theo, ngõ hầu chẳng uổng cuộc đời này và sự gặp gỡ này. Nếu cho là chẳng đáng để vào mắt thì hãy đem cho người thiếu mắt. Từ rày, chỉ nên bàn bạc, trình bày với ông [Phí] Phạm Cửu, đừng gởi thư cho Bất Huệ nữa, do tôi không đủ tinh thần thù tiếp.

 

hs1215

 

Trong thư đầu, Chư Tổ Sư mượn tên của vị cư sĩ để giải thích về những chữ Đức như Tánh Đức, Tu Đức, Chấn Đức... Trong Kinh luận Phật cũng đã thuyết rằng "hết thảy chúng sanh đều có Tánh Đức của Như Lai", nhưng vì bị phiền não nghiệp chướng gây chướng ngại nên chẳng thể hiển hiện ra được. Cho nên chúng ta đây cần phải Tu Đức, để dần hiển hiện lại Tánh Đức vốn sẳn có trong mỗi chúng ta. Các việc Tu Đức mà các Ngài thường nhắc nhở như: Giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, rồi cạn lòng thành tận lòng kính... Đây là các pháp tu Tự lực của thế gian, để làm trợ duyên trợ hạnh cho pháp xuất thế "Tín Nguyện Niệm Phật, cầu sanh Tây Phương". Dẫu tu Chánh hay Trợ gì thì tất thảy đều phải hồi hướng cầu sanh Cực Lạc cả, như thế mới đúng pháp. Đối với những hành nhân trẻ tuổi, trung niên, hay còn sức khỏe, nhiệm vụ để gánh vác thì càng phải nên Chánh - Trợ song tu, như thế thì mới hợp lẽ [đạo và đời], như thế thì gốc rễ mới vững chắc, đường đạo mới bền lâu xuyên suốt cả một đời người được. Chúng ta nên nói là Chánh - Trợ song tu nghe có vẻ chân thật, dễ hiểu, dễ áp dụng hơn, tránh hiểu lầm. Chứ nói Phước - Huệ song tu thì cũng đặng thôi, nhưng phàm phu chúng ta dễ hiểu lầm, dẫn đến việc thực hành và dụng tâm không đúng như pháp. Thật sự rằng, với người sơ cơ mới vào Đạo thì không nói, nhưng với hành giả Tịnh Độ đã có thâm niên, tức là thời gian tu đã khá lâu rồi, Kinh giáo đã khá thông tỏ ít nhiều thì là rằng, cuộc đời này của chúng ta [mục đích sử dụng] để làm gì? Nhiệm vụ [trọng yếu nhất] của chúng ta là gì? [Để khỏi phải luống uổng trôi qua mất]. Những điều này thì chắc mỗi hành giả chúng ta đều biết rõ câu trả lời rồi. Bởi thế cho nên, mọi hành tung, việc làm đều là vì liễu thoát sanh tử, vãng sanh Cực Lạc trong một đời này mà thôi. Vậy thì chúng ta liệu có cầu thêm Phước thêm Huệ chăng? Mọi hành động việc làm, mọi hình thức tu trì chỉ cốt cho đời này được sanh về Cực Lạc mà thôi. Bởi thế nên tất tần tật đều hồi hướng về Cực Lạc cả, như đã nói bên trên. Chúng ta chẳng nên cầu thêm gì cả, nhưng trong quá trình tu tập, thì thuận theo lý Nhân Quả thì Phước huệ cũng ít nhiều nảy sanh, mặc dù cái duyên chúng ta chân thật giữ gìn và hạn chế lại thôi, để cầu sanh về, cải thiện phẩm vị... Điều này thì Chư Tổ Sư các Ngài cũng đã nói tới nhiều lần rồi, chúng ta đọc kỹ sẽ thấy rõ. Qua phân tích đó chúng ta thấy, Chánh trợ song tu mới đúng đắn chân thật [với hành giả Tịnh Độ chân chính], còn như nói Phước huệ song tu, không lẽ chúng ta lại đi cầu Phước huệ ở ở thế gian này chăng? Như thế lại là vừa cầu sanh Tịnh Độ lại vừa cầu phước báo thế gian này nữa ư? Như thế thì không chuyên nhất, không đúng như pháp đâu! Nhiệm vụ quan trọng [và cấp bách] nhất của mỗi chúng ta đó là chỉ cầu sanh về Cực Lạc thôi. Rồi một khi đã về được cõi đó rồi thì thứ gì mà chẳng có, từ phước huệ, cho đến y báo chánh báo, công đức, thọ mạng, quang minh vô lượng...

Cho nên, mặc dù chỉ là văn tự, nhưng việc sử dụng cho đúng đắn, sát nghĩa vẫn là quan trọng, nhiều khi mang tính chất quyết định về sau. Bởi nó sẽ định hướng cách dụng tâm để tu tập hành trì của mình. Cái này mới thực sự quan trọng, quyết định, chứ chẳng phải chỉ ở hình tướng tu trì. Phàm phu chúng ta thì cần cả Sự và Lý [phải viên dung] thì mới được. 

Trong thư thứ hai, Ngài giải thích một số từ ngữ, văn tự cho vị cư sĩ hiểu rõ, chúng ta có thể đọc để học tập thêm. Có chỗ trọng yếu chúng ta cần phải nhấn mạnh lưu tâm, mặc dù đã cùng nhau học tập nhiều lần rồi, nhưng vẫn cứ phải lặp đi lặp lại mãi. Dạ vâng, đó là "Pháp môn Niệm Phật nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh". Chúng ta tu Tịnh Độ, mục đích trong đời này là được vãng sanh, liễu thoát sanh tử. Như đã từng nói nhiều lần, để có được điều này chúng ta cần phải nương cậy vào Phật lực [để đới nghiệp vãng sanh về]. Mà để có được điều này [tức được nương nhờ Phật lực cứu vớt về] thì sao? Tín Nguyện đầy đủ [tức chân thật, thiết tha], niệm Phật cầu sanh về. Thiếu những điều này [các pháp này] thì thôi, chịu thua! Cùng lắm là nếu tu thật tốt thì lúc cuối Phật đại từ đại bi cứu vớt về Biên Địa. Đây rõ ràng là không phải pháp Phật muốn nói ra [không phải lời Thề Nguyện tiếp dẫn] mà chẳng qua vì lòng Đại từ đại bi thương xót chúng sanh Ngài thấy ở lòng chân thành thiết tha của chúng sanh mà Ngài cứu vớt về thôi, nhưng phải ở Biên Địa một thời gian để tẩy trừ cái vô minh [nghi hoặc] này. Hay nói cách khác đây là pháp không phải 'quang minh chính đại' mà chỉ là pháp 'cứu rỗi' [phụ trợ] của Phật thôi. Vì thế nếu 'đi' theo cách này thì khó có thể tự tại [nhẹ nhàng] mà đi về với Phật được. Và điều quan trọng là chẳng thể đoán định, quyết định được sanh về, đối với hàng phàm phu như đa phần chúng ta.

 

Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng

Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn

(năm Dân Quốc 21 - 1932)

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.