Ai Nấy Đều Dốc Kiệt Lòng Thành, Tận Lòng Kính Thì Lợi Ích Không Thể Nào Diễn Tả Được

NPSTD7

 

Ai Nấy Đều Dốc Kiệt Lòng Thành, Tận Lòng Kính Thì Lợi Ích Không Thể Nào Diễn Tả Được

Hết thảy các pháp đều là Phật pháp [thế gian đến xuất thế gian]

Ơn Phật rộng lớn, trọn khắp, chẳng còn sót tí gì. Thoạt mới thành Chánh Giác, bèn nói ra pháp Ngài đã chứng, chỉ riêng hàng Pháp Thân đại sĩ mới có thể lãnh hội được; nhân, thiên, phàm phu, Tiểu Thừa chẳng thấy, chẳng nghe. Do vậy, bèn từ Thật bày ra Quyền, ẩn Đại dùng Tiểu, tùy thuận cơ nghi, khéo léo khuyến dụ dần dần, đợi đến khi đã đoạn Phiền Hoặc, đã chứng Chân Đế, rồi mới quở trách mọi lẽ, nhiều cách đào thải, khiến cho phát đại tâm cầu Phật quả, chẳng trụ vào pháp mà tu vạn hạnh. Đến khi căn cơ đã chín muồi bèn hội tam quy nhất, khai Quyền hiển Thật, thọ ký thành Phật cho khắp tất cả, diễn bày thông suốt lớn lao bổn hoài xuất thế. Từ đấy, hiểu rõ hết thảy các pháp đều là Phật pháp, hết thảy mọi người đều là Phật tử, không còn ai cam lòng thoái khuất.

 

Rõ ràng thiên về hàng phàm phu bị nghiệp buộc ràng

Lại còn thương xót những kẻ tự lực kém hèn, hiện tại quyết khó thể liễu thoát, liền đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ khiến cho họ cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Có những kẻ tội chướng sâu nặng, định nghiệp chẳng dễ chuyển dời, bèn mở rộng bí mật quán đạo khiến cho họ nương vào sức Tam Mật diệt cho hết sạch không còn sót. Nhưng hai pháp này là đạo để phàm lẫn thánh cùng tu, là pháp thành thủy thành chung; do chúng rõ ràng thiên về hàng phàm phu bị nghiệp buộc ràng khiến cho họ mau được lợi ích thù thắng mà nói như vậy; chứ thật ra mười phương tam thế chư Phật không vị nào chẳng do pháp này mà viên thành Phật đạo, không vị nào chẳng dùng pháp này để phổ độ quần manh.

 

Đến khi pháp truyền sang Chấn Đán, Lương Võ Đế lên ngôi, thuật giấc mộng cùng cao tăng để phổ độ các hàm linh; nhân đó, [chư Tăng] đọc trọn Đại Tạng, soạn thành nghi quỹ này. Từ đấy lưu thông cho đến ngày nay. Xét về nguồn cội thì dùng vô lượng oai đức đà-la-ni để phát khởi. Xét trên mặt trước thuật và cách xếp đặt thì hết thảy các pháp trong cả một đời giáo hóa không gì chẳng nêu trọn để đọc tụng, tu trì. Do đó, pháp môn ấy rộng lớn, lợi ích sâu rộng, không những làm cho lục đạo phàm phu mau thoát khỏi nghiệp trói buộc mà còn làm cho tam thừa thánh nhân mau chứng Bồ Đề.

 

Lòng thành mới kham phù hợp lẽ chân! 
Người có thể hoằng đạo, lòng thành kham phù hợp lẽ chân! Nếu vị trai chủ thỉnh pháp và các sư tác pháp ai nấy đều dốc kiệt lòng thành, tận lòng kính thì lợi ích không thể nào diễn tả được. Ví như mùa Xuân về trên cõi đất, thảo mộc đều được sanh thành; vầng trăng sáng vằng vặc giữa trời, sông ngòi mỗi mỗi đều hiện bóng. Vì thế, đương nhân được nghiệp tiêu trí rạng, chướng hết, phước cao, tiên vong đều được sanh về Tịnh Độ, sở cầu không gì chẳng toại ý, lại khiến cho oán thân bao kiếp, hàm linh trong pháp giới đều được tắm gội ân quang Tam Bảo, cùng kết duyên chủng Bồ Đề. Nếu trai chủ chẳng thành tâm thì công đức bỏ tiền [làm pháp hội] hữu hạn, tội lỗi khinh mạn pháp vô cùng. Tăng chúng chẳng chí thành thì thổi ống bễ, thổi sáo thành kinh, nhịp chày giã gạo thành lễ. Lúc Tam Bảo long thiên giáng lâm, làm chuyện lỗ mãng, quấy quá, tắc trách, làm sao núi tội không cao chót vót, biển phước cạn khô, sống thì mắc họa tai, chết bị khổ sở cho được? Sách này là bản của Hàng Thản, mờ mịt quá sức, chùa Thiên Đồng dù khắc cũng khó được phổ cập. Do vậy, Tịch Công chùa Vạn Thọ ở Duy Dương, Dũ Công chùa Bảo Luân v.v… quyên tiền để khắc lại hầu được lưu truyền rộng rãi, sai Quang ghi lại năm tháng. Do vậy, lược thuật nguyên ủy cũng như điều lợi, mối tệ, để người theo đuổi pháp này chỉ được lợi ích, chẳng bị tổn hại, thì Phật thánh hoan hỷ, phước lẫn huệ cả hai cùng tăng trưởng. Nguyện những người tu pháp này ai nấy đều gắng lên.

 

thkk11

Ảnh minh họa: "Thành kính"

Đoạn: Lại còn thương xót những kẻ tự lực kém hèn, hiện tại quyết khó thể liễu thoát, liền đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ khiến cho họ cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Có những kẻ tội chướng sâu nặng, định nghiệp chẳng dễ chuyển dời, bèn mở rộng bí mật quán đạo khiến cho họ nương vào sức Tam Mật diệt cho hết sạch không còn sót. 

Pháp môn Tịnh Độ phù hợp căn tánh thời Mạt pháp này, cả Tăng lẫn Tục, mà đặc biệt là hàng cư sĩ tại gia, tu chân nơi cõi tục này. Sở dĩ Pháp môn này phù hợp được như vậy đó là do đặc thù riêng, khác hẳn với các Pháp môn khác. Pháp môn này quan trọng ở "cậy [được] vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương" là thành công. Còn 'cậy chẳng được' thì thôi... chịu thua, dẫu cho Tự Lực của bản thân có cao trỗi thế nào đi nữa! Ngược lại, dạng phàm phu tục tử, túc nghiệp [nghiệp từ trước] dẫu sâu nặng thế nào nhưng một khi 'cậy được vào Phật từ lực' là thành tựu giải thoát trong đời. Cho nên nói tu Pháp môn này không luận căn cơ [cao thấp], không luận nghiệp chướng [từ trước nặng nhẹ], không luận công phu [sâu cạn], không luận công đức [nhiều ít]... mà luận ở Tâm đạo hành giả như thế nào mà thôi. Điều này thì chúng ta đã luận bàn quá nhiều rồi, ai ai cũng đã rõ, ở đây không cần nhắc lại nữa.

Chúng ta chỉ lưu ý thêm một chút, rằng Pháp môn này là Pháp "cậy vào Phật lực để vãng sanh", vậy thì hành giả Tịnh Độ đây 'bỏ công bỏ sức' ra ở chỗ nào? Dạ vâng, chắc chắc ở chỗ công phu niệm Phật rồi, nhưng như thế đã đủ chưa, còn dốc sức vào đâu nữa? Phải dốc sức vào gầy dựng Tâm lực của hành giả nữa. Tâm lực phải mạnh, kiên cố, chắc chắn, mà điều này không phải cứ muốn là được [có ngay], phải truy rèn nghiêm túc, chân thật, bỏ công bỏ sức ra như rèn luyện công phu hàng ngày vậy. Nhưng chỗ này đòi hỏi cao hơn so với công phu nhiều, phải đạt 'tới hạn' mới được. Công phu thì là "nhất tâm" [không đạt cũng không sao], còn tâm lực phải đạt "chí tâm" mới được [bắt buộc]. Thật ra, nếu hành giả chân thật tu học, lâu dần sẽ đạt được [chí tâm], còn công phu "nhất tâm" thì phải căn cơ thượng thượng mới may ra, trong vạn người không biết được một không? Đặt biệt là thời buổi 'tạp loạn' như hiện nay, giữ thời khóa đều đặn hằng ngày, 'mỗi năm như một ngày' đã là khó huống hồ đạt đến những cảnh giới như thế [trừ các vị Bồ Tát trên kia xuống đây độ sanh thì chẳng luận bàn]. Thật ra sự vi diệu thù thắng của Pháp môn này ấy chính là chỗ này, tức không cần đến công phu "nhất tâm" mà vẫn được cứu vớt giải thoát. Tức là thiên về hàng phàm phu được cứu thoát [kiêm luôn cả bậc Thánh nhân]. 

Đoạn: Người có thể hoằng đạo, lòng thành kham phù hợp lẽ chân! Nếu vị trai chủ thỉnh pháp và các sư tác pháp ai nấy đều dốc kiệt lòng thành, tận lòng kính thì lợi ích không thể nào diễn tả được. Ví như mùa Xuân về trên cõi đất, thảo mộc đều được sanh thành...

Thật sự, hoằng đạo mà thiếu lòng thành thì làm sao hoằng đạo cho được. Đạo giải thoát [lẽ chân] thì phải cần lòng thành mới tương ưng, mới cảm ứng. Tự hành, dạy người mà thiếu lòng thành kính [tức qua quýt cho có, hay kèm thêm mục đích 'tư lợi' nào đó] thì thôi..., tốt nhất đừng nên làm, bởi có làm cũng vô ích!

Câu "ai nấy đều dốc kiệt lòng thành, tận lòng kính thì lợi ích không thể nào diễn tả được", câu này thì luận bàn càng nhiều càng... sáo rỗng, tốt nhất mỗi chúng ta cố gắng tận lực thực hành, rồi tự cảm nhận lấy vậy. Thật sự, tu Tịnh Độ cầu giải thoát thì điều này ắt phải có, hay nói cách khác tu càng tốt điều này càng có lợi ích lớn lao càng thăng tiến trên đường đạo, còn tu mà trái nghịch với điều này thì càng 'tuột dốc không phanh' [miễn bàn đến thành tựu!].

Các đoạn khác chúng ta cùng đọc và học tập.

 

Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên

Lời tựa khắc lại bộ Thủy Lục Nghi Quỹ

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.