Chánh kinh:
Hựu chúng bảo liên hoa châu mãn thế giới. Nhất nhất bảo hoa bách thiên ức diệp. Kỳ hoa quang minh, vô lượng chủng sắc. Thanh sắc thanh quang, bạch sắc bạch quang, huyền, hoàng, châu, tử, quang sắc diệc nhiên. Phục hữu vô lượng diệu bảo bách thiên Ma Ni, ánh sức trân kỳ, minh diệu nhật nguyệt. Bỉ liên hoa lượng, hoặc bán do tuần, hoặc nhất, nhị, tam, tứ, nãi chí bách thiên do-tuần, nhất nhất hoa trung, xuất tam thập lục bách thiên ức quang.
Lại nữa, các hoa sen báu mọc trọn khắp thế giới. Mỗi đóa sen báu có trăm ngàn ức cánh. Quang minh của hoa ấy có vô lượng màu: hoa xanh ánh sáng xanh, hoa trắng ánh sáng trắng; [với các màu] huyền, vàng, đỏ, tía, quang và sắc cũng giống như vậy. Lại có vô lượng diệu bảo, trăm ngàn Ma Ni chói rực quý lạ, sáng ngời như mặt trời, mặt trăng. Những hoa sen ấy to nửa do-tuần, hoặc một, hai, ba, bốn, cho đến trăm ngàn do-tuần. Mỗi một hoa tỏa ra ba mươi sáu trăm ngàn ức quang minh.
Giải:
Trước hết, kinh nói đến hoa sen báu, sau đó mới thuật Phật hiện từ quang minh của hoa.
Trong phần nói về hoa sen báu, có đến sáu ý:
1. Hoa sen mọc khắp đầy cõi nước.
2. Số lượng cánh hoa sen: Mỗi đóa sen có trăm ngàn ức cánh.
3. Quang sắc vô lượng. Bản thể của hoa chính là quang minh nên kinh chép: “Kỳ hoa quang minh” (Quang minh của những hoa ấy). Hoa sen lại có vô lượng màu sắc. Kinh dùng sáu màu khác nhau: Xanh, trắng, huyền, vàng, đỏ tươi, tía để tượng trưng cho vô lượng màu. Hoa sen màu xanh phóng quang minh sắc xanh. Hoa sen màu trắng phóng quang minh sắc trắng. Các hoa sen màu huyền, vàng… cũng đều phóng quang minh cùng màu với màu sắc của hoa nên kinh nói: “Quang sắc diệc nhiên” (Quang và sắc cũng giống như thế).
4. Hoa sen trang nghiêm bằng diệu bảo. Lại có vô lượng diệu bảo trăm ngàn Ma Ni trang nghiêm hoa sen. Các báu ấy đều là thứ hiếm quý nên bảo là “trân kỳ”. Các thứ diệu bảo ấy phóng vô lượng quang. Quang minh có đủ các màu, mỗi màu lại phóng quang, chiếu rực, tô điểm lẫn nhau nên bảo là “ánh sức” (chói rực); tỏa sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng nên bảo là “minh diệu nhật nguyệt” (sáng ngời hơn mặt trời, mặt trăng).
Quán Kinh nói: “Nhất nhất diệp gian, hữu bách ức Ma Ni châu vương, dĩ vi ánh sức. Nhất nhất Ma Ni châu phóng thiên quang minh” (Trong mỗi một cánh hoa có trăm ức Ma Ni châu vương để tô điểm chói ngời. Mỗi một viên Ma Ni châu phóng ra trăm ngàn quang minh).
5. Kích thước của mỗi hoa sen là từ nửa do-tuần cho đến trăm ngàn do-tuần.
6. Hoa sen phóng ra quang minh mầu nhiệm: “Nhất nhất hoa trung, xuất tam thập lục bách thiên ức quang” (Mỗi một hoa sen tỏa ra ba mươi sáu trăm ngàn ức quang). Trăm ngàn ức quang chỉ là con số tượng trưng nhằm biểu thị vô lượng. (...)
Ảnh minh họa: "Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, thường trỗi nhạc trời, vàng ròng làm đất, ngày đêm sáu thời, mưa hoa Mạn-đà-la cõi trời."
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Đây là đoạn Kinh văn nói về hoa sen nơi cõi Cực Lạc, phẩm 21 "Bảo Liên Phật Quang". Trong Phật Pháp, hoa sen luôn được dùng làm hình tượng. Nơi cõi Cực Lạc cũng vậy, hoa sen có mặt ở khắp nơi, cũng là phương tiện trợ thủ đắc lực để trợ duyên trợ hạnh cho nhân dân cõi ấy hành đạo. Từ khi bắt đầu được sanh ra họ đã được hóa sanh từ hoa sen, hay ngay khi một chúng sanh tử thập phương phát tâm niệm Phật cầu sanh về cõi ấy, lập tức nơi ấy đã mọc lên một hoa sen nơi ao Thất Bảo, rồi khi được về cõi ấy, sau một thời gian tu tập khi đã tiêu hết nghiệp rồi thì mới "hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh" [với dạng phàm phu đới nghiệp vãng sanh]. Nói chung hình tượng hoa sen có thể nói gắn kết chặt chẽ với đời sống nhân dân cõi ấy vậy. Chúng ta đọc phần chú giải để hiểu rõ hơn về hoa sen nơi cõi ấy được miêu tả như thế nào.
Chúng ta cùng dành chút thời gian để nói một chút về vấn đề tu học của hành giả Tịnh Độ. Thật sự có câu hỏi rằng, nếu không nương tựa Kinh giáo để gầy dựng Tín Nguyện tâm cho chân thật đầy đủ, thì liệu rằng hành giả có thành tựu được theo con đường Tín Nguyện niệm Phật hay chăng? Câu trả lời dĩ nhiên là có. Có thể nói các thời trước đây thì vãng sanh theo dạng này là chủ yếu, bởi thời đó Kinh sách, trước tác chưa được lưu thông rộng rãi như bây giờ, nên việc được tiếp cận học tập là điều khá hiếm hoi, chỉ một số rất ít may mắn có được nhân duyên bắt gặp những giáo lý cần thiết này kia. Vậy câu hỏi đặt ra là như vậy thì làm sao họ có được Tín tâm chân thật chẳng nghi để được thành tựu? Vấn đề này có thể nói một cách khái quát 'chung chung' đó là căn tánh thời trước dĩ nhiên là tốt hơn bây giờ nhiều, cộng với môi trường hoàn cảnh tu tập cũng yên tịnh, không 'xô bồ' chật hẹp như bây giờ, bởi đa phần thời trước sống trong các vùng nông thôn yên tĩnh, cũng không có truyền thông đại chúng tạp loạn như bây giờ... Kết hợp các yếu tố đó nên họ có thể giữ vững một câu Phật hiệu cả đời hay thậm chí chỉ vài ba năm là được tự tại vãng sanh. Nhất là đối với các vị lớn tuổi, các cụ già, khi đã xong bổn phận của thế gian rồi, họ buông bỏ chỉ một lòng niệm Phật tin Phật đến rước thì rất dễ thành tựu. Bởi Tín tâm của họ vẫn giữ vững qua năm tháng, mà hầu như không gặp các yếu tố đối nghịch như tư tưởng hay kiến giải trái chiều nào cả. Họ cứ tin chắc niệm Phật được Phật rước, rồi cứ thế mà hành trì, năm này qua năm nọ, chẳng thay đổi phương pháp hay đường lối tu tập gì cả. Thời nay nếu ai làm được vậy thì cũng chắc chắc được thành tựu, chỉ có điều thời nay làm được điều này là quá khó khăn, do nhiều yếu tố về con người, thời thế, hoàn cảnh... khiến con người ta không sao giữ được Tín tâm chân thật như thuở ban đầu, nếu thiếu sự khuyến tấn hun đúc từ các giảng sư, thiện tri thức cho đến Kinh giáo này kia. Cho nên họ phải cần kề cận Pháp suốt là vậy, rằng 'ba ngày không nghe Pháp là Tín tâm lui sụt'. Bởi vậy thời nay tu thì nhiều hơn nhưng thành tựu không thể bằng thời trước, mà nếu có thành tựu cũng đa phần từ Pháp Hộ Niệm. Cho nên thời nay mà để thoát khỏi pháp Hộ Niệm, nhất là với dạng tu đường dài, thì chỉ có cách nương tựa vào Kinh giáo để gầy dựng Tín Nguyện, chắc chẳng có con đường nào khác. Còn với các bậc cao niên lớn tuổi thì có thể tu như cái cách thời trước cũng có thể thành tựu, nhưng so ra với các thời đó thì cơ hội thành tựu đã bị suy giảm đi quá nhiều. Cho nên xem ra dù dạng nào thì vẫn rất cần phải nương tựa Kinh giáo để học tập, nếu còn có thể tiếp thu tốt, như thế cơ hội thành tựu mới được nâng lên được.
Còn một vấn đề nữa, đặc biệt đối với hành giả thời trước, họ có một 'kiểu' để vãng sanh nữa, đó là gì? Chúng ta thấy trong Đại Nguyện của Phật có chỗ đặc biệt quan trọng đó là "chí tâm tin ưa", nếu xét về Tín tâm thì đó chính là "bất sanh nghi hoặc", chúng sanh chỉ cần đạt như thế, đảm bảo vãng sanh. Nhưng xét kỹ ra, thì chỗ này vẫn còn một 'cách' nữa để thành tựu, đó là "chí tâm ưa", được như thế thì cũng chắc chắn vãng sanh, tức là hành giả công phu đến mức thật sự thích thú câu Phật hiệu, tức ưa thích một cách 'chân thật', như thế duy trì đến cuối đời cũng chắc chắc được Phật rước [còn định nghĩa "chí tâm ưa" cụ thể là như thế nào thì không ai định nghĩa được, khác với "chí tâm tin" bên trên]. Đây chính là cái Lý để giải thích cho các trường hợp 'tu mù' không biết gì giáo lý cả, cả đời hành trì chân thật, rồi đến cuối đời vãng sanh thật thù thắng, tức là có hai trường hợp, từ hành trì có thể họ thành tựu được Tín tâm chân thật hay thành tựu được cái tâm ưa thích niệm Phật chân thật, hay là cả hai. Hoặc giả các trường hợp động vật niệm Phật vãng sanh cũng là do thành tựu cái tâm 'ưa thích' niệm này, chứ chúng có biết gì đâu mà tin với chẳng tin.
Cho nên lý giải về Kinh giáo chúng ta phải nói cho rõ ràng tường tận tất cả các trường hợp thành tựu là từ đâu, từ đường lối tu tập như thế nào, giáo lý ra sao, chẳng thể mập mờ được, như thấy họ tự tại vãng sanh là phán đã đạt công phu Nhất tâm [trong khi toàn phàm nhân tu học không], hay khi thấy tu học không thể nào thành tựu nổi công phu thì cứ đẩy xuống Pháp Hộ Niệm 'gánh' hết, trong khi có biết bao Pháp vi diệu hay Tông chỉ tông yếu trong đó lại chẳng được đề cập đến.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 21. Bảo Liên Phật Quang (trích lục)
Ngài Hoàng Niệm Tổ