Các Xuất Quảng Trường Thiệt Tướng, Phóng Vô Lượng Quang, Thuyết Thành Thật Ngôn, Xưng Tán Vô Lượng Thọ Phật Bất Khả Tư Nghị Công Đức

 

 

NPSTD7

Các Xuất Quảng Trường Thiệt Tướng, Phóng Vô Lượng Quang, Thuyết Thành Thật Ngôn, Xưng Tán Vô Lượng Thọ Phật Bất Khả Tư Nghị Công Đức

Chánh kinh:
Phục thứ A Nan! Đông phương Hằng hà sa số thế giới, nhất nhất giới trung như Hằng sa Phật, các xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức. Nam, Tây, Bắc phương Hằng sa thế giới, chư Phật xưng tán diệc phục như thị. Tứ duy thượng hạ Hằng sa thế giới, chư Phật xưng tán diệc phục như thị.
Lại này A Nan! Hằng hà sa số thế giới ở phương Ðông, trong mỗi một thế giới, [các vị] Phật như cát sông Hằng, mỗi vị đều hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang, nói lời thành thật khen ngợi Vô Lượng Thọ Phật công đức chẳng thể nghĩ bàn. Chư Phật trong Hằng sa thế giới nơi phương Nam, Tây, Bắc cũng khen ngợi như thế. Chư Phật trong Hằng sa thế giới ở bốn phương bàng, trên, dưới cũng khen ngợi như vậy.
Giải:
Trước hết nói đến phương Ðông là thuận theo thế tục: Mặt trời mọc từ phương Ðông. Các thế giới trong phương Ðông nhiều như số cát sông Hằng (Hằng hà sa số). Trong mỗi một thế giới đều có Hằng hà sa số Phật. Mỗi đức Phật “các xuất quảng trường thiệt tướng phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn” (đều hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang nói lời thành thật).
“Quảng trường thiệt tướng” (Tướng lưỡi rộng dài) chính là một trong ba mươi hai tướng hảo. Lưỡi to, dài, mềm mại, đỏ tươi, mỏng mảnh, thè ra có thể che cả mặt đến tận mí tóc. Trong sách Viên Trung Sao, đại sư Cừ Am viết: “Hiện tướng lưỡi rộng dài nhằm biểu thị chẳng hư vọng. Từ vô lượng kiếp đến nay, miệng không phạm bốn lỗi nên cảm được tướng này”.
Sách Sớ Sao cũng nói: “Bởi Thế Tôn nhiều kiếp nói lời thành thật nên tướng lưỡi rộng dài khác lạ thường nhân. Nhưng [tướng lưỡi của Phật] lại có thường tướng và hiện tướng khác biệt. Nếu là thường tướng thì ngậm vào vừa khít trong miệng, thè ra thì che cả mặt đến tận mí tóc. Ðể làm cho ngoại đạo sanh lòng tin, Phật đã từng hiện bày tướng như vậy. Còn nếu là hiện tướng thì có lớn, nhỏ sai khác”.
Kinh A Di Ðà chép: “Như thị đẳng Hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: ‘Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh” (Hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở trong nước mình hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật: Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức được hết thảy chư Phật hộ niệm này).
Kinh bảo: “Biến phú tam thiên đại thiên thế giới” (Che khắp tam thiên đại thiên thế giới), đấy chính là “hiện tướng” thù thắng. Ðem so kinh này với Tiểu Bổn thì Ðại kinh chẳng nói “biến phú” (che khắp) nhưng nói “phóng vô lượng quang” thì biết là tướng lưỡi này chính là quang minh ấy, quang minh ấy chính là tướng lưỡi này chẳng hai, chẳng khác. Kinh nói: “Phóng vô lượng quang” nên ta biết rằng pháp âm vang vọng vượt khỏi cả tam thiên đại thiên thế giới. (...)

“Thuyết thành thật ngôn” (Nói lời thành thật): Nói lời chí thành, chân thật, chẳng dối. Sách Di Ðà Sớ Sao nói: “Thành thật ắt là đáng tin vì Thành (誠) là chân thật, khẩn thiết, không trá ngụy. Thật (實) là chắc chắn đúng, chẳng dối. Ðó là sư tử hống, vô úy thuyết, dẫu ngàn vị thánh nhân xuất hiện cũng chẳng thể thay đổi được, muôn đời giữ lấy làm khuôn phép vậy”. Sách còn viết: “Thuần chân, dứt vọng, vạn kiếp vẫn như thế. Nói lời thành thật, còn gì hơn thế!” Như vậy, lời chư Phật khen “Vô Lượng Thọ Phật công đức chẳng thể nghĩ bàn” chính là lời cực chân, cực thật, ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thể biến cải, muôn đời tuân thủ chẳng thể trái nghịch; thuần là chân thật chẳng hề hư vọng. Do vậy, bọn chúng ta đều phải nên tin chắc, chớ ôm lòng nghi.
Về chữ “bất khả tư nghị công đức” (công đức chẳng thể nghĩ bàn) xin xem lại lời giải thích trong phẩm mười một.
Kế đó, kinh nói mười phương Hằng sa chư Phật cũng đều khen ngợi đức Di Ðà như thế. Sách Hội Sớ nói: “Tuy chư Phật chứng đắc bình đẳng như một, nhưng cái lợi ích Niệm Phật được vãng sanh là diệu pháp bất cộng của Phật Di Ðà nên chư Phật nhượng đức, dạy quy về một đức Phật. Ðấy là kết quả của lời nguyện mười bảy vậy”. Ý nói: Phật, Phật đạo đồng, chẳng có cao, thấp; nhưng pháp môn Niệm Phật Vãng Sanh chính là diệu pháp bất cộng của Phật Di Ðà nên cái lợi ích đó cũng là bất cộng. Vì vậy, chư Phật kính nhường phẩm đức của A Di Đà Phật, nhằm hiển thị công đức vô biên của hết thảy chư Phật đều quy về một đức Phật Di Ðà, ngõ hầu mười phương chúng sanh đều nhập Di Ðà nguyện hải, vãng sanh thế giới Cực Lạc. Ðấy chính là nguyện thứ mười bảy “chư Phật khen ngợi” được thành tựu. Mười phương Phật khen ngợi thì danh hiệu mới có thể vang khắp mười phương, nhiếp trọn vô biên chúng sanh cùng quy hướng Cực Lạc.

KINH A DI ĐÀ 54554FFFF55

Ảnh minh họa: "Này Xá Lợi Phất, như ta hôm nay ngợi khen về công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà. Ở phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu Âm. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm" này".

(Kinh A Di Đà bằng tranh)

Chúng ta đến với Phẩm 23, Thập Phương Phật Tán. Trong Phẩm này Đức Phật nói về việc hằng hà sa số chư Phật ở khắp thập phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài, nói lời thành thật, khen ngợi công đức bất khả tư nghì của Phật A Di Đà. Chúng ta đọc các trích dẫn, chú giải của các Ngài để hiểu rõ hơn về đoạn Kinh văn này.

Ở đây cần nói là sở dĩ có được điều này là do Nguyện thứ 17 "Chư Phật khen ngợi" được thành tựu, thế nên chư Phật khắp nơi không khen không được. Chẳng phải là do Phật A Di Đà 'yêu cầu' gì cả mà là do chư Phật thập phương đều tự ý đồng phát tâm khen ngợi giống hệt nhau như thế. Cho nên vì thế mà Pháp môn Tịnh Độ được truyền bá rộng khắp, phổ độ khắp pháp giới chúng sanh là vậy, theo chiều ngang là khắp thập phương, theo chiều dọc là quá hiện vị lai, đều đồng được thọ trì phổ độ hết cả. Chúng ta nói thêm chút, là vì sao lại được như vậy? Dĩ nhiên là có vô số nguyên nhân nhưng có một số nguyên nhân chính đó là sự thù thắng của Pháp môn Tịnh Độ, mọi căn cơ chúng sanh đều có phần, thứ nữa là chính các chư Phật ở khắp muôn phương ấy cũng phần lớn được thành tựu từ Pháp môn này nên nay đã thành Phật vì chúng sanh mà truyền trao lại, triển chuyển không dứt vậy.

Vậy việc tán thán ở đây là tán thán điều gì? Như Kinh nói là "xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức" [khen ngợi Vô Lượng Thọ Phật công đức chẳng thể nghĩ bàn], hay nói cụ thể dễ hiểu hơn đó là khen ngợi tán thán [đồng nghĩa giới thiệu tuyên lưu phổ biến] Pháp môn Tịnh Độ, như thế là đủ tất cả trong đó, vừa cảm ân chư Phật, vừa lợi lạc chúng sanh. Chứ chẳng phải như nhiều người cho rằng đó chỉ là tán thán câu Phật hiệu không đâu nhé, nói như thế là chưa đủ, còn nhiều cái khác như giới thiệu toàn bộ 48 Đại Nguyện, tán thán cõi Cực Lạc... để chúng sanh khắp thập phương phát tâm hoan hỉ cầu sanh về, chứ không thì ai biết [sự tốt đẹp] ở đó mà phát tâm tu tập nguyện sanh sanh về. Cho nên Nguyện thứ 17 "Chư Phật khen ngợi" là một trong những Nguyện quan trọng nhất trong 48 Đại Nguyện [được các Ngài liệt vào 'top 5' những Nguyện chân thật nhất, tức mang lại lợi ích chân thật, rốt ráo, viên mãn cho chúng sanh "một đời thành Phật"].

Trong đây có chỗ là "Lại này A Nan! Hằng hà sa số thế giới ở phương Ðông, trong mỗi một thế giới, [các vị] Phật như cát sông Hằng", tức trong mỗi thế giới có vô số chư Phật trước sau xuất hiện để giáo hóa, phổ độ chúng sanh trong quốc độ của mình, chứ không phải mỗi thế giới chỉ có một chư Phật mà là tùy thời kỳ khác nhau. Chẳng hạn thế giới Ta Bà đây lúc này đang là thời kỳ giáo hóa của Phật Thích Ca Mâu Ni, đã được gần ba ngàn năm, còn hơn chín ngàn năm nữa là chấm dứt thời kỳ hóa độ của Phật Thích Ca. Trước Phật Thích Ca là Phật Ca Diếp đã từng xuất thế hóa độ chúng sanh tại đây, và sau Phật Thích Ca là Phật Di Lặc sẽ xuất thế sau khoảng hơn tám triệu năm nữa [một nửa tiểu kiếp nữa]. Sau đó là quảng thời gian rất dài [đến 5 tiểu kiếp] sẽ không có vị Phật nào xuất hiện ở Ta Bà này để hóa độ chúng sanh cả, cho đến trong tiểu kiếp cuối cùng [thứ 20, 16 triệu năm] thì liên tiếp các vị Phật xuất thế để hóa độ chúng sanh ở đây [hơn 990 vị Phật] để rồi khép lại một chu kỳ Trung kiếp [Trụ] gồm cả thảy một ngàn vị Phật xuất thế ở đây, trước khi thế giới Ta Bà này bước vào một thời kỳ 'vô vi' [Hoại, Không của Đại kiếp này, và Thành ở Đại kiếp tiếp theo], tức các thời kỳ này hoàn toàn không có sự sống hay cảnh giới gì ở đây cả [ngay cả như Địa Ngục nếu các vị nào vẫn còn trong đó thì đều được 'di dời' đến một thế giới khác]. Đây là nói đại lược về Đại kiếp hiện tại ở thế giới Ta Bà này của chúng ta.

Chúng ta đọc các chú giải để nắm rõ hơn về đoạn Kinh văn này. Bây giờ chúng ta dành chút thời gian để tiếp tục nói về việc học tập gầy dựng Tín Nguyện tâm chân thật đầy đủ để một đời này tất cả cùng được vãng sanh Tây Phương, liễu thoát sanh tử, chứng Bất Thoái. Chúng ta biết rằng, với hành giả Tịnh Độ, thì hễ có Tín tâm chân thật đầy đủ thì ắt có Nguyện thiết tha chân thật theo. Cho nên vấn đề của chúng ta là phải gầy dựng cho được Tín tâm chân thật chẳng nghi ngay từ lúc bình thời này, chứ chẳng phải đợi đến lúc nào nữa cả. Bởi đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách vậy. Rồi trong suốt quá trình tu học qua chúng ta đã biết việc gầy dựng Tín tâm chẳng qua là gầy dựng để tin chắc chẳng nghi Lời Thề Nguyện của Phật, tức Di Đà Bổn Nguyện [hiểu đúng nghĩa lý], chứ chẳng phải là gì khác cả. Mà để tin chắc chẳng nghi Di Đà Bổn Nguyện thì các Ngài đã chỉ cho chúng ta cách thức để mà nương tựa vào giáo lý để làm điểm tựa mà phát khởi, giữ gìn Tín tâm, đó chính là cái chân lý này "Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật" [nên Bổn Nguyện không hư dối], chúng ta cần phải khắc cốt ghi tâm cái chân lý này, một điều tưởng như hiển nhiên ai ai cũng biết cũng thừa nhận, nhưng để biến nó trở nên hữu dụng, mang lại lợi ích chân thật thì phải ghi lòng tạc dạ điều này mới được. Rằng biết thì ai cũng biết, nhưng để 'cảm' được cái điều này thì cần phải khắc cốt ghi tâm, không thể hời hợt qua loa, hay dạng cưỡi ngựa xem hoa được, nói cách khác là cần phải có thời gian để nó 'thấm' vào sâu trong tâm trí mình, cho nên mới dùng cái từ 'gầy dựng' là vậy, tức phải có thời gian, dần dần. Mà như vậy để chi vậy? Để cho 'thấm' đến một lúc nào đó thì tất cả những điều, những cái lý mà gây ra sự trái ngược [phản lại] cái chân lý này, thì tất cả những cái Lý đó đều là hư giả, không thật, tức đều không thể xảy ra. Cụ thể ở đây là gì? Giả dụ như có người không tin [hay phản bác lại] rằng Bổn Nguyện hư dối, không thật, thế thì chúng ta tự động 'bật lại' ngay rằng 'thế thì làm sao có "Phật đang tại thế thành Phật" cho được, cho nên đó là điều không thể có, không thể xảy ra, và chắc chắn rằng Bổn Nguyện phải tuyệt không hư dối. Do đó nội dung của nó cũng chân thật, không hư dối được [chỗ "nãi chí thập niệm"]. Bởi vậy trong quá trình gầy dựng điều quan trọng mang tính bước ngoặc ở đây đó là hành giả không cần lưu tâm đến nội dung của Bổn Nguyện làm gì cả, cứ mặc nó, không cần bận tâm đến [bởi điều này hoàn toàn thừa, không cần thiết, chỉ gây cản trở], mà quan tâm đến cái gì? Chỉ quan tâm đến một điều duy nhất, đó là Bổn Nguyện này là chân thật hay không [hay là hư dối]? Trả lời được câu hỏi này [và tin như thế], thế là đủ! Rằng xác định và tin nó chân thật, vì cái Lý gì? [Hoặc giả cho rằng nó là hư dối, không thật, đó là từ đâu mà nói vậy?] Bởi vậy nên mới nói cần nương tựa Kinh giáo mà tu học, để chi? Để gầy dựng, bảo vệ Tín tâm của mình, và để phản bác, loại bỏ đi những hiểu biết, kiến giải sai lệch khác [làm ảnh hưởng, dao động Tín tâm của ta]. Rồi một khi đã tin chắc chẳng nghi rằng Bổn Nguyện là chân thật, không hư dối rồi thì tất cả hệ quả kéo theo cũng phải chân thật không hư dối. Đó là gì? Nội dung của nó ["nãi chí thập niệm", tức mười niệm tất sanh], rồi "chúng sanh xưng niệm tất vãng sanh" [tức kiểu nói 'niệm Phật, Phật rước'], rồi đến chính ta niệm Phật đây cũng chắc chắc vãng sanh, không thể khác, không thể nghi!

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 23. Thập Phương Phật Tán

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.