Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng
Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được! Giấy trắng ngần lóa mắt, không viết được chữ nào. Niệm Phật tam-muội cũng chẳng dễ gì đạt được. Nếu chẳng tự lượng, rất có thể bị ma dựa. Phải biết: Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện. Có tín - nguyện, dẫu chưa đắc tam-muội, chưa đắc nhất tâm bất loạn, vẫn có thể vãng sanh. Hãy đừng chỉ lấy nhất tâm bất loạn và đạt được Niệm Phật tam-muội làm chí hướng, sự nghiệp, rồi chẳng dốc chí vào tín nguyện và tịnh niệm (nhiếp trọn sáu căn mà niệm là “tịnh niệm”. Lúc niệm Phật, thường nghe âm thanh niệm Phật của chính mình, tức là chỗ để thực hiện việc “nhiếp trọn sáu căn”. Hãy nên chú ý). Sợ rằng chí lớn, ăn nói lớn lối, sẽ chẳng được lợi ích thật sự vì chẳng chú trọng tín nguyện, chẳng thể cảm ứng đạo giao cùng Phật, vẫn làm một chúng sanh khổ sở trong đời ác Ngũ Trược này!
Ngõ hầu những ai nghe đến được gieo thiện căn xuất thế
Đối với bài Cảnh Sách của ngài Ngẫu Ích như ông đã nói đó, hãy nên thỉnh người viết chữ đẹp viết bằng chữ to, ngay ngắn, cẩn thận, treo trên vách trong sân để khơi gợi tín tâm của hết thảy mọi người, đấy thật là ý nghĩa quan trọng. Còn chuyện ông xin soạn thêm bài Cảnh Sách khác thì những điều được nói trong Văn Sao đều chẳng đáng để dùng làm Cảnh Sách hay sao? Thời cuộc hiện tại nguy ngập đến cùng cực, hãy nên khuyên mọi người già trẻ trong nhà cùng niệm Nam-mô A Di Đà Phật và niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát để làm kế dự phòng. Nếu không, khi tai họa xảy đến, trốn lánh cũng không được, đề phòng cũng không xong, biết làm sao được? Hãy nên đem lời này nói với hết thảy những ai có sự hiểu biết, ngõ hầu những ai nghe đến được gieo thiện căn xuất thế. Sau này đừng gởi thư đến nữa, phàm những chuyện viết lời tựa, ghi lời bạt, giảo chánh đều nhất loạt chẳng thể thù tiếp!
Thư trả lời cư sĩ Tiêu Trường Hựu ở Côn Minh
Chỉ giữ tấm lòng tốt lành, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt lành, nhất tâm niệm Phật
Lời nói của nhà Phong Thủy sao đáng lấy làm căn cứ? Nếu đúng như họ nói thì người phú quý sẽ vĩnh viễn phú quý, há có thường thấy con nhà cao sang bị chết đói nữa ư? Người có thế lực nhất trong cõi đời để chọn được cuộc đất tốt, nơi làm nhà tốt, có ai bằng hoàng đế? Cớ sao hoàng đế phần nhiều thường đoản thọ? Từ đời Hán đến nay, chưa có triều đại nào tồn tại hơn bốn trăm năm. Người nghèo các nỗi khổ dẫy đầy, lại muốn được chỗ ở tốt, huyệt mộ tốt nhưng chẳng được, đấy là muốn khỏi khổ lại tự lập ra cách để càng bị khổ sâu xa hơn! Ông chỉ giữ tấm lòng tốt lành, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt lành, nhất tâm niệm Phật, lần lượt khuyên người, y theo Một Lá Thư Gởi Khắp để khuyến hóa thì nghiệp chướng ngầm tiêu, thiện căn tăng trưởng. Quang sám hối cho ông sao bằng chính ông cạn kiệt lòng thành kính tự sám hối có hay hơn không?
Họa - phước đều do tâm tạo, mà cũng do tâm chuyển
Người sắp chết rất cần trợ niệm; người sắp sanh cũng cần phải bảo sản phụ niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát, những người săn sóc bên cạnh cũng lớn tiếng trợ niệm thì chắc chắn chẳng gặp chuyện khó sanh đau khổ. Dẫu khó sanh sắp chết, dạy sản phụ ấy tự niệm và cả nhà hoặc ở trong phòng sanh ở chỗ khác cùng niệm thì cũng chẳng bao lâu sẽ liền an nhiên sanh nở. Ông muốn chuyển họa thành phước, nên đem những chuyện trong Một Lá Thư Gởi Khắp này gặp ai cũng nói, so với chuyện sửa sang nhà cửa, di chuyển mộ phần tổ tiên sẽ có ích không tổn hại. Người đời chẳng cầu phước điền nơi tâm, cứ cầu phước điền nơi ngoại cảnh, thường chôn vùi thiên lương để mưu đoạt nhà cửa, đất đai tốt đẹp của người khác, đến nỗi nhà tan người chết, con cháu tuyệt diệt đều là vì bị lũ thầy Phong Thủy mê hoặc mà ra!
Nếu thầy Phong Thủy biết họa - phước đều do tâm tạo, mà cũng do tâm chuyển, [Phong Thủy] sẽ trở thành khuôn phép hữu ích cho cuộc đời. Hơn nữa, các nhà Phong Thủy mỗi người một ý kiến khác nhau, phàm với cách nhìn của người xưa, người đời nay chưa chắc đã hoàn toàn tán đồng, do muốn tỏ ra chính mình hiểu biết cao siêu, chứ thật ra quá nửa là dụng tâm của tiểu nhân, muốn nhờ vào đó để dối đời trộm danh vậy! Hãy thử nhìn vào những nhà Phong Thủy xem, có ai đại phát đạt hay không? Họ có thể mưu tính cho người khác, cớ sao chẳng mưu tính cho chính mình? Quang già rồi, mục lực suy yếu tột cùng, từ rày đừng gởi thư đến nữa, gởi đến sẽ nhất quyết không trả lời!
Thư đầu, đoạn: "Niệm Phật tam-muội cũng chẳng dễ gì đạt được. Nếu chẳng tự lượng, rất có thể bị ma dựa. Phải biết: Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện. Có tín - nguyện, dẫu chưa đắc tam-muội, chưa đắc nhất tâm bất loạn, vẫn có thể vãng sanh. Hãy đừng chỉ lấy nhất tâm bất loạn và đạt được Niệm Phật tam-muội làm chí hướng, sự nghiệp, rồi chẳng dốc chí vào tín nguyện và tịnh niệm".
Thật sự thì đã là hành giả Tịnh Độ có thâm niên, tức đã tu tập Tịnh Độ trong một thời gian lâu dài và nghiêm túc chân thật cầu vãng sanh, liễu thoát sanh tử trong đời này, thì dù nói hay chẳng nói ra, ai ai cũng muốn công phu của mình được ngày càng tốt hơn, rồi có thể đạt được Nhất Tâm, niệm Phật tam muội, hay ít ra cũng được thành khối thành phiến. Nhưng hiềm nổi, dù ít nhiều chắc ai cũng trải qua, vấn đề là càng cố 'bất loạn' thì lại càng 'bấn loạn' hơn, đây là sự thật thực tế, hình như với đa số chúng ta. Nguyên nhân là do đâu? Dạ vâng, có thể là do nhiều nguyên nhân khác nhau [tổng hợp] tạo thành. Thứ nhất, do tâm [phàm phu] chúng ta nên 'dục tốc bất đạt', cứ muốn thành tựu cho nhanh, thiếu hẳn sự nhẫn nại lâu bền; thứ hai, do căn cơ hèn kém của chúng sanh thời Mạt này nên việc nhiếp tâm [không còn vọng tưởng] là quá khó khăn, vượt khả năng của mình; thứ nữa là điều kiện môi trường hoàn cảnh không cho phép [thiếu phước, nghiệp dày], ví dụ sống trong môi trường quá bất tịnh, thời gian, nơi chốn không cho phép, hay còn phải 'cày ải' chuyện mưu sinh, chăm lo gia đình, công việc, phận sự... khiến thời gian, tâm trí bị chi phối nghiêm trọng, không thể chuyên tâm chuyên chí dụng công niệm Phật được. Ngoài ra còn một lý do nữa đó là sanh trong thời Mạt sâu này nên những thế lực cảnh giới ngoại đạo, chướng duyên hữu hình hay vô hình dẫy đầy, lại thường hay 'bắt nạt' những người thích gầy dựng công phu, họ tìm mọi cách phá hoại, cản trở, nên các vị ấy thường gặp những chướng duyên hơn hẳn các dạng tu thông thường khác. Vì thế, các Ngài khuyên "chẳng tự lượng, rất có thể bị ma dựa", và "đừng chỉ lấy nhất tâm bất loạn và đạt được Niệm Phật tam-muội làm chí hướng, sự nghiệp, rồi chẳng dốc chí vào tín nguyện và tịnh niệm".
"Tịnh niệm" nghĩa là như thế nào? Như các Ngài nói đó là: "Nhiếp trọn sáu căn mà niệm là tịnh niệm”, mà cụ thể hơn, đó là "Lúc niệm Phật, thường nghe âm thanh niệm Phật của chính mình, tức là chỗ để thực hiện việc nhiếp trọn sáu căn". Hành giả niệm Phật chúng ta lúc hạ thủ công phu chỉ cần cung kính chí thành và "thường nghe âm thanh niệm Phật của chính mình" như thế là được, chẳng cần phải cố gắng dẹp trừ vọng niệm hay điều gì khác cả. Cứ hàng ngày chuyên cần, bền bỉ, không bỏ sót, không gián đoạn là được, rồi lâu ngày chày tháng công phu đạt tới đâu hay như thế nào là tùy sự nổ lực cùng căn cơ của mỗi người vậy, đừng nên bận tâm đến làm gì. Đạt được 'cao, sâu' một chút thì tốt mà thấp kém chẳng 'cao, sâu' gì cả cũng chẳng sao! Bởi chúng ta chắc thảy đều đã rõ, Kinh luận, trước tác các Ngài đã dạy rõ, rằng "Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện", tức "Được vãng sanh hay không là do có tín - nguyện [đầy đủ] hay không", còn còn năng lực công phu sâu cạn chỉ quyết định phẩm vị đi về. Rõ ràng, với hàng phàm phu chúng ta, việc nào là quan trọng? Việc 'được về' hay 'phẩm vị'? Nếu chọn 'phẩm vị' làm 'chí hướng, sự nghiệp' rồi ngộ nhỡ với căn cơ hạn chế [như đa phần chúng ta] rồi chẳng tới đâu cả thì đến như hạng bét Hạ phẩm hạ sanh cũng chẳng có phần chứ đừng nói là phẩm vị này kia. Cho nên tu hành chúng ta cần nhất là sự [đạt được lợi ích] chân thật, như Chư Phật Chư Tổ các Ngài thường hay nhắc tới. Chứ đừng chạy theo những thứ hảo huyền này kia, chân thật [để đạt được] cái thấp đi đã, rồi từ từ gầy dựng tích lũy dần lên.
Trong thư thứ hai, có vấn đề mà trong cuộc sống đời thường người ta thường hay luận bàn, đó là "phong thủy". Thật ra phong thủy, cuộc đất, long mạch, nơi chôn cất huyệt mộ... là 'có' không? Dạ vâng, 'có' thì chắc chắc là có đấy, nhưng mang yếu tố quyết định thì không phải đâu, rõ ràng là như vậy. Tất thảy họa - phước đều do Nhân - Quả quyết định. Ví dụ, một người đương gặp 'thời', tức có vận mệnh tốt, đã gieo trồng nhiều nhân tốt, nay đang gặp cái duyên tốt lành [thế gian hay gọi là gặp 'thời'] thì dẫu cho ở chỗ cuộc đất xấu, không tốt [theo các 'thầy' phong thủy nhận định] thì họ vẫn cứ 'phất' lên thôi. Ngược lại, kẻ chẳng gieo nhân lành, tức trong mệnh chẳng có, dẫu có ở cuộc đất 'đại cát' đi nữa cũng chịu thua, không cách gì cải thiện được tình hình! Vậy phong thủy, cuộc đất có ý nghĩa gì không? Dạ vâng, nó có thể là trợ duyên [tức cái duyên phụ trợ thêm], chứ tuyệt nhiên chẳng phải là cái nhân để giúp chúng ta thay đổi. Muốn có cái nhân tốt lành để gặt cái quả tốt thì chính chúng ta phải tự gieo trồng lấy, chẳng thể tự có. Mọi thứ chẳng ngoài cái nghiệp chúng ta tạo tác như thế nào thôi [từ thân, khẩu, ý]. Cho nên, các Ngài khuyên "chỉ giữ tấm lòng tốt lành, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt lành, nhất tâm niệm Phật, lần lượt khuyên người [tin sâu nhân quả, tín nguyện trì danh, cầu sanh Cực Lạc]". Đó cũng là lời khuyên chung dành cho tất cả chúng ta vậy.
Dĩ nhiên, nếu đã đề câp đến đề tài "phong thủy" thì cũng nên luận bàn thêm, rằng cũng có những cuộc đất, hay khu vực vị trí nào đó thật sự là 'nguy hiểm' hay 'đáng sợ' gì đó... Điều này phần nhiều đó là do các vị vô hình đang cư trú hay trấn giữ tại nơi đó gây ra. Các vị ấy ở các cảnh giới khác nhau, thường cư ngụ đã lâu, và có nghiệp lực, tâm địa thật sự phức tạp, khó đoán. Cho nên tốt nhất phàm phu chúng ta nên tránh xa những chỗ ấy, tốt nhất là đừng nên 'đụng vào'. Còn muốn cứu giúp họ thì tốt nhất nên mở máy niệm Phật nơi đó, cung kính cung thỉnh mời họ nghe, để giúp tiêu nghiệp, tăng phước huệ, chóng được siêu thoát.
Đoạn tiếp, "Người sắp chết rất cần trợ niệm; người sắp sanh cũng cần phải bảo sản phụ niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát, những người săn sóc bên cạnh cũng lớn tiếng trợ niệm thì chắc chắn chẳng gặp chuyện khó sanh đau khổ".
Đây là lời khuyên chung mà Chư Tổ dành cho tất cả, nói chung. Thực tế mà nói, người tu Tịnh Độ niệm Phật cầu sanh Cực Lạc thì đại đa phần là công phu chưa tới [nhất tâm bất loạn], hoặc là Tín Nguyện cũng chưa được đầy đủ [còn lúc tin lúc ngờ], chưa đạt tới "chí tâm tin ưa, bất sanh nghi hoặc" như Kinh nói, thế cho nên, nếu có một lời khuyên chung cho đại chúng, dành cho số đông, thì [nên nói] rằng việc Hộ Niệm lúc lâm chung là rất quan trọng và cần kíp, chẳng thể xem thường được. Bởi đơn giản đây chính là cách cứu vớt cuối cùng dành cho họ vậy. Ngay đến người công phu thành tựu hay Tín Nguyện tròn đầy rồi thì lúc cuối được đại chúng, đồng tu, nhân thân nhiệt tình hộ niệm, trợ duyên niệm Phật xung quanh vẫn rất tốt, giúp nâng cao phẩm vị cảnh giới khi ra đi, nhờ công đức phước duyên của đại chúng đồng hiệp lực, trợ duyên, hồi hướng... Bởi vậy, nếu đủ phước duyên, Phật lực thường sẽ từ bi sắp xếp, ban phát cho họ một ca hộ niệm [chính xác với họ là trợ duyên] thật viên mãn, trước lúc ra đi theo Phật về Tây. Đó cũng là cách kết duyên, để lại biểu pháp cho mọi người một cách thật hiệu quả, thù thắng, 'tự hành độ người' vậy.
Cho nên, trong hành trì tu học, chúng ta cần phải biết 'tùy cơ mà ứng pháp'. Trước đại chúng, số đông nói chung, bậc sơ cơ hay thâm niên, cao thấp lẫn lộn thì nói gì thì nói, thuyết gì thì thuyết, nhất thiết chúng ta không thể xem nhẹ Pháp Hộ Niệm lúc lâm chung; còn với các vị đã quen thuộc tu tập hành trì gầy dựng Tín Nguyện [tức theo đúng Chánh Pháp mà Chư Phật, Tổ truyền trao, chỉ dạy] thì chúng ta chỉ cần chú trọng đến "Tín Nguyện Niệm Phật, cầu sanh Cực Lạc" [tức "Dùng Tín Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật"], bởi đây chính là đường lối Tông chỉ của Tịnh Độ Tông vậy. Chứ chúng ta một mặt cứ xiểng dương Pháp Hộ Niệm, một mặt lại xiểng dương pháp 'Phật hộ niệm' [tức Tín Nguyện niệm Phật, "nương cậy Phật từ lực, đới nghiệp vãng sanh"]? Như vậy thì làm sao... cho đặng đây? Bởi như thế chắc chắn Tín tâm của chúng ta có vấn đề ngay. Nói cách khác, như thế thì việc gầy dựng Tín tâm chúng ta sẽ gặp 'trở ngại', rất khó để đạt tới mức đầy đủ, tới hạn được [bất sanh nghi hoặc]. Đó là tùy chúng ta chọn lựa thôi, nên đặt niềm tin vào 'ai'? Giữa Phật lực và 'Nhân lực'? [Dẫu nhân lực có là bậc Thánh nhân, Cao Tăng, Đại chúng, đồng tu, thiện tri thức đi nữa]. Đây cũng là điều mà các Ngài thường lặp đi lặp lại suốt, rằng chúng ta cần phân biệt rõ sự hơn kém giữa Phật lực với Tự lực [dành cho cả những hành giả cùng chuyên tu Tịnh Độ, cho việc 'hộ niệm' lúc cuối]. Với chúng ta nên nhớ rằng, một khi có được Phật lực gia trì [tức có cảm ứng đạo giao] thì những thế lực kia [như lực đại chúng, đồng tu, cao tăng, thiện hữu tri thức...] thường không thiếu gì cả, chứ chẳng phải không có [nếu có đủ nhân duyên tốt lành], điều này do đâu? Đó chính là do Phật lực sắp đặt sẳn cho, Ngài 'phái' các sứ giả của Ngài đến để trợ duyên, đưa tiễn những hành nhân Tịnh Độ hành trì chân thật như pháp một đoạn đường cuối để về Tây Phương với Phật. Đấy là cùng được tự lợi lợi tha vậy.
Các đoạn khác chúng ta cùng đọc và học tập.
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng
Đại Sư Ấn Quang
Như Hòa chuyển ngữ