Chiếu Tột Mười Phương, Chúng Sanh Trông Thấy Sanh Tâm Hy Hữu

NPSTD7

 

Chiếu Tột Mười Phương, Chúng Sanh Trông Thấy Sanh Tâm Hy Hữu

Chánh Kinh

Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện bốn mươi hai: Chiếu tột mười phương)

Giải:
Ðây là nguyện thứ bốn mươi hai: “Chiếu tột mười phương”.
“Quảng bác” nghĩa là rộng rãi vô biên, “nghiêm tịnh” là trang nghiêm thanh tịnh. “Quang oánh” nghĩa là quang minh chiếu rực rỡ.
“Triệt chiếu” nghĩa là không vật gì nhỏ nhặt mà chẳng được chiếu rõ, không vật gì xa cách mấy mà chẳng thấy nổi.
“Hy hữu” là như kinh Niết Bàn nói: “Thí như thủy trung, sanh ư liên hoa, phi vi hy hữu; hỏa trung sanh giả, thị nãi hy hữu” (Ví như trong nước mọc lên hoa sen thì chẳng phải là chuyện hy hữu. Hoa mọc trong lửa mới là hy hữu).
Cõi nước Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh, sáng ngời thanh khiết như tấm gương chiếu tường tận mười phương, giống như Quán Kinh nói mão trời của Ðại Thế Chí Bồ Tát “hữu ngũ bách bảo hoa, nhất nhất bảo hoa, hữu ngũ bách bảo đài. Nhất nhất đài trung, thập phương chư Phật tịnh diệu quốc độ quảng trường chi tướng, giai ư trung hiện” (Có năm trăm hoa báu. Trong mỗi hoa báu có năm trăm đài báu. Trong mỗi một đài, tướng rộng lớn của các cõi nước tịnh diệu của mười phương chư Phật đều hiện rõ cả). Do vậy, ta biết được cõi Cực Lạc lớn nhỏ dung hợp lẫn nhau, rộng hẹp vô ngại, một mảy bụi, một sợi lông đều hiện bóng mười phương.
Vãng Sanh Luận ghi: “Từ nơi cung điện và các lầu gác, xem thấy mười phương một cách vô ngại”. Ðàm Loan pháp sư giảng câu ấy như sau: “Như gương sáng trong sạch, hết thảy các tướng tịnh, uế, nghiệp duyên thiện, ác của mười phương quốc độ đều hiện ra cả”.
Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: “Thí như minh tịnh phát quang kim pha lê kính, dữ thập phương thế giới đẳng. Ư bỉ kính trung, kiến vô lượng sát. Nhất thiết sơn xuyên, nhất thiết chúng sanh, địa ngục, ngạ quỷ, nhược hảo, nhược xú, hình loại nhược can, tất ư trung hiện” (Ví như tấm gương bằng chất kim pha lê sáng sạch tỏa ánh sáng, đối với mười phương thế giới đều bình đẳng. Nơi gương sáng ấy thấy vô lượng cõi. Hết thảy núi, sông, hết thảy chúng sanh, địa ngục, ngạ quỷ, dù tốt hay xấu, các hình loại nhiều như thế ấy đều hiện trong đó).
Các kinh luận vừa dẫn trên đây đã giảng rõ ý nghĩa câu “quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới” (sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật).
Chữ “chúng sanh” chỉ nhân dân trong cõi Cực Lạc và chúng sanh trong mười phương thế giới: Hễ ai thấy được tướng chiếu tỏ cùng tột mười phương của thế giới Cực Lạc đều phát tâm Bồ Ðề thù thắng vô thượng. Tâm ấy hy hữu như sen nở trong lửa, nên bảo là “sanh hy hữu tâm”. Ðã sanh được tâm ấy thì sẽ được như bản Tống dịch nói: “Bất cửu đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Chẳng bao lâu sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

hqdp1155

Nam Mô A Di Đà Phật

Đoạn: “Quảng bác” nghĩa là rộng rãi vô biên, “nghiêm tịnh” là trang nghiêm thanh tịnh. “Quang oánh” nghĩa là quang minh chiếu rực rỡ.

“Triệt chiếu” nghĩa là không vật gì nhỏ nhặt mà chẳng được chiếu rõ, không vật gì xa cách mấy mà chẳng thấy nổi.
“Hy hữu” là như kinh Niết Bàn nói: “Thí như thủy trung, sanh ư liên hoa, phi vi hy hữu; hỏa trung sanh giả, thị nãi hy hữu” (Ví như trong nước mọc lên hoa sen thì chẳng phải là chuyện hy hữu. Hoa mọc trong lửa mới là hy hữu).

Thực tế là như Kinh văn này nói, quang minh cõi Cực Lạc chiếu tột khắp mười phương, không nơi cõi Phật nào không chiếu đến, không hiện diện. Như cõi Ta Bà đây cũng có quang minh từ cõi ấy soi rọi không sót chỗ nào, từ các cảnh giới Địa ngục, Ngạ quỷ, súc sanh, trời người... Vấn đề là không phải chúng sanh nào cũng thấy được, chúng sanh nào thấy được chắc chắn sẽ sanh tâm "hy hữu". Điều này cũng giống như quang minh A Di Đà Phật cũng soi chiếu khắp mười phương, không nơi nào không có, nhưng chỉ "nhiếp thủ không rời" chúng sanh niệm Phật.

Để so sánh một chút, chúng ta thấy ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, các vì sao... đều có giới hạn, gần thì tỏ, xa thì mờ, xa hơn nữa thì không thấy. Do các quang minh này được lưu xuất ra từ vật chất nên có 'sanh tử', có thành hoại, mà Kinh nói "phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng". Ví dụ, quang minh mặt trời chỉ soi chiếu mạnh các hành tinh ở gần mặt trời, còn ở xa thì vô cùng lạnh lẽo băng giá, vượt ra ngoài Thái dương hệ thì hầu như không còn cảm nhận được quang minh này nữa. Còn quang minh của Phật Di Đà, của thế giới Cực Lạc thì soi chiếu khắp mười phương, tột cùng khắp vũ trụ, dù xa xôi đến đâu, không nơi nào chẳng có. Chúng ta làm một chút so sánh để phần nào thấy được 'thần lực' của quang minh này. Vũ trụ rộng lớn bao nhiêu? Hàng chục tỉ năm ánh sáng. Những đêm quang đãng, chúng ta có thể nhìn thấy bầu trời chi chít những vì sao lấp lánh, thế nhưng khoảng cách giữa chúng thật sự là bao xa? Xa thì hàng tỉ năm, gần thì cũng vài năm ánh sáng. Nếu xét về mật độ ngôi sao trong vũ trụ, chúng ta nhìn thấy vậy chứ còn nhỏ hơn [thưa hơn] mật độ của một nguyên tử trong một mét khối vuông. Vũ trụ thật rộng lớn bao la, mười phương Chư Phật thật rộng lớn bao la, vô cùng vô tận! Thế mà ánh quang minh này soi chiếu [thấu tột] đến tất cả, không sót một vì sao xa xôi nào cả. Thật là bất khả tư nghì!

Trở lại vấn đề, chúng sanh nào thấy được quang minh này thì sẽ sanh tâm hy hữu, còn không thấy được thì ...thôi vậy. Vì sao Đức Phật không cho tất cả cùng thấy để cùng "sanh tâm"? Vấn đề này thuộc về lý Nhân Quả. Quang minh thì hiện hữu khắp nơi đấy, nhưng muốn thấy được thì phải như thế nào mới thấy được, phải gieo thiện căn, phải trồng căn lành thế nào đấy, không phải tự nhiên bỗng không mà có. Cũng vậy, quang minh của Phật soi chiếu muôn nơi, khắp mọi hang cùng ngõ hẻm, ở mọi cảnh giới, mọi quốc độ, nhưng [ánh quang minh này] chỉ thấu nhiếp những chúng sanh niệm Phật. Như chúng ta đang niệm Phật đây thì ánh quang minh của Phật cũng đang soi chiếu nhiếp thủ chúng ta không rời vậy, chỉ là mắt phàm chúng ta không nhìn thấy mà thôi. Đây cũng là một hình thức Hộ Niệm cho người niệm Phật [dù cho có cầu vãng sanh hay không]. Đây thuộc về Nguyện chung hễ "văn danh được phước". Điều này giúp cho chúng sanh tăng trưởng Tín tâm mà niệm Phật, dần đi vào đường đạo cầu giải thoát, Tín Nguyện Niệm Phật, cầu sanh.

Những Nguyện này là những Nguyện nói về sự thù thắng của thế giới Tây Phương Cực Lạc. Nhân dân cõi ấy thì ai ai cũng đều thấy được những quang minh này nên đều được "sanh tâm hy hữu", mà chúng sanh các cõi khác hầu như không có được điều này. Đó là một sự khác biệt lớn, mà Phật Di Đà 'ưu ái' "tích lũy công đức' cho họ vậy, chúng sanh nào muốn được vậy thì tu tập 'mau mau về'. 

Phật A Di Đà ra sức gầy dựng một quốc độ thù thắng vi diệu như vậy để đón chúng sanh thập phương về hưởng an lạc, tu hành thành Chánh quả, rồi lại độ tận vô biên chúng sanh, triển chuyển chẳng dứt. Tâm Bi Nguyện của Ngài rộng sâu tha thiết không ngằn mé, không cùng tận như thế, không lẽ Ngài đi 'trở ngại', đặt tiêu chuẩn cao [không thể với tới] với chúng sanh nào muốn sanh về? Không thể nào! Trở ngại hay không là ở chính chúng ta đây này. Một, có thể là thiếu Thiện Căn [không tin, không muốn về, thích phước báu nhân thiên]; hai, có thể là thiếu duyên phước [phước đức, nhân duyên] [gặp được Chánh Pháp, hành trì]. Chỉ có ba điều này thực sự đã trở ngại chúng sanh trên con đường tu tập cầu giải thoát mà thôi. Chúng ta đây hằng ngày tu tập cũng là để gầy dựng, vun bồi những điều này vậy.

Chúng ta cùng đọc các chú giải Kinh văn khác của các Ngài để cùng học tập.

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.