"Chư Phật Khen Ngợi"

NPSTD7

 

"Chư Phật Khen Ngợi"

Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, thập phương thế giới, vô lượng sát trung, vô số chư Phật, nhược bất cộng xưng thán ngã danh, thuyết ngã công đức, quốc độ chi thiện giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, vô số chư Phật trong vô lượng cõi nước trong mười phương thế giới nếu chẳng cùng khen ngợi danh hiệu của tôi, thuật sự tốt lành của cõi nước và công đức của tôi thì chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện mười bảy: Chư Phật khen ngợi)

Giải:
Ðây là nguyện thứ mười bảy: “Chư Phật xưng thán”. Xưng (稱) là xưng dương, Thán (歎) là tán thán. Bản Hán dịch ghi: “Ngã tác Phật thời, linh ngã danh văn bát phương thượng hạ, vô số Phật quốc, chư Phật các ư đệ tử chúng trung, thán ngã công đức quốc độ chi thiện. Chư thiên nhân dân nhuyễn động chi loại, văn ngã danh tự, giai tất dũng dược, lai sanh ngã quốc” (Lúc tôi thành Phật, tiếng tăm của tôi vang khắp tám phương, trên, dưới. Trong vô số cõi nước, các đức Phật vị nào cũng ngự giữa chúng đệ tử, khen ngợi công đức và sự tốt lành của cõi nước tôi. Chư thiên, nhân dân, các loài ngọ nguậy, bò trườn nghe được danh hiệu tôi thảy đều hớn hở sanh về cõi tôi). Bản Ngô dịch ghi tương tự.
Ngài Vọng Tây bảo: “Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện này rất thiết yếu”“nếu không có nguyện này, làm sao mười phương [nghe được danh hiệu Ngài]. Nay chúng ta được gặp gỡ giáo pháp vãng sanh hoàn toàn là nhờ vào nguyện này, khá nên suy nghĩ kỹ”. Ý của ngài Vọng Tây là nếu không có nguyện này thì bọn chúng ta thân đang trong cõi Sa Bà uế độ, làm sao nghe được danh hiệu của vị giáo chủ và cõi nước ấy? Dẫu cho cõi ấy, Phật ấy công đức mầu nhiệm tuyệt vời, thanh tịnh trang nghiêm, nhưng nếu ta chưa từng được nghe biết thì còn biết nhờ vào đâu để phát khởi nguyện thù thắng cầu vãng sanh cõi ấy? Vì vậy, ngày nay bọn chúng ta nghe được pháp môn Tịnh Ðộ thật là nhờ vào sức của thệ nguyện này. Do đó, trong cõi uế độ này, đức Bổn Sư Thích Ca mới xưng dương, tán thán A Di Ðà Phật và công đức chẳng thể nghĩ bàn của cõi Cực Lạc cho chúng ta được nghe biết. Bởi thế, ngài Vọng Tây khen rằng: “Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện này quan trọng nhất”.
Ngài Pháp Tạng cầu nguyện danh hiệu mình vang dội mười phương chỉ là để nhiếp trọn mười phương hết thảy chúng sanh vãng sanh Cực Lạc, rốt ráo thành Phật. Nếu không có lời nguyện này thì cái nguyện “mười niệm vãng sanh” cũng chỉ vô ích bởi có nghe được pháp thì mới biết cách trì danh!
Sách Hội Sớ lại giảng câu “xưng thán ngã danh” (khen ngợi danh hiệu của tôi) như sau:
“Câu ‘xưng thán ngã danh’ có ba nghĩa:
1. Chư Phật xưng dương đức hiệu của đức Phật ấy.
2. Chư Phật khen ngợi người xưng danh như Tiểu kinh (kinh A Di Ðà) thật đã nói rõ chư Phật hộ niệm người xưng danh.
3. Chư Phật vừa khen ngợi lại vừa tự mình xưng niệm danh hiệu A Di Ðà Phật”.
Sách còn nói thêm: “Tam thế chư Phật do niệm Di Ðà tam-muội mà thành Ðẳng Chánh Giác”.
Ý sách Hội Sớ là: Câu “chư Phật xưng thán” có ba nghĩa: Chư Phật khen ngợi thánh hiệu của Phật A Di Ðà, chư Phật khen ngợi hết thảy người trì niệm danh hiệu A Di Ðà và bản thân chư Phật cũng xưng niệm thánh hiệu A Di Ðà. Chư Phật nhờ Niệm Phật tam-muội mà trọn thành Chánh Giác.

 

BSTCMN

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (Ảnh: Vườn Hoa Phật Giáo)

 

Đoạn đầu: Lúc tôi thành Phật, tiếng tăm của tôi vang khắp tám phương, trên, dưới. Trong vô số cõi nước, các đức Phật vị nào cũng ngự giữa chúng đệ tử, khen ngợi công đức và sự tốt lành của cõi nước tôi. Chư thiên, nhân dân, các loài ngọ nguậy, bò trườn nghe được danh hiệu tôi thảy đều hớn hở sanh về cõi tôi.

Chúng sanh trong cõi Ta Bà này được Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni giới thiệu, giảng dạy về giáo Pháp Tịnh Độ, có Bổn Thệ Trọng Nguyện, cõi Cực Lạc trang nghiêm thù thắng, danh hiệu vạn đức Hồng Danh A Di Đà Phật... Tất cả những điều này không thể không xảy ra ở bất cứ một quốc độ Phật quốc nào, bởi đó chính là một lời Thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà, nên chẳng thể hư dối, không thể không hiện hữu.

Chúng ta ngày nay được tiếp cận, học tập giáo Pháp này, không thể không mang tâm cảm ân sâu nặng đối với hai Đấng Từ Tôn. Và âu đó cũng là nhân quả của nhiều đời nhiều kiếp ta đã nhọc công tu hành, cúng dường vô lượng Chư Phật, làm các công đức... Thế nên chúng ta cần phải trân quý cái nhân duyên này, đó chính là kết quả của một quá trình hành đạo rất lâu dài của chúng ta đấy, chẳng phải tự nhiên một sớm một chiều mà có được như vầy đâu. Thế nên, ngày nay gặp ai mình có nói Tịnh Độ nhưng họ chẳng chịu nghe theo thì ... thôi kệ vậy, nhân duyên họ chưa tới, đừng khiến cho họ buông lời phỉ báng thế là tốt rồi.

Đoạn: Ngài Pháp Tạng cầu nguyện danh hiệu mình vang dội mười phương chỉ là để nhiếp trọn mười phương hết thảy chúng sanh vãng sanh Cực Lạc, rốt ráo thành Phật. Nếu không có lời nguyện này thì cái nguyện “mười niệm vãng sanh” cũng chỉ vô ích bởi có nghe được pháp thì mới biết cách trì danh!

Cái này đích thực là 'hữu xạ tự nhiên hương', Ngài không hề 'tự khen ngợi, quảng cáo'... nhưng tất cả Chư Phật từ cổ chí kim, khắp thập phương đều xưng dương, tán thán. Tất cả cốt chỉ là để mang đến lợi ích chân thật cho chúng sanh mà thôi. Bổn hoài của tất cả Chư Phật đều mong muốn tất thảy chúng sanh đều được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, viên thành Phật đạo. Giáo pháp thì rất rất nhiều, nhưng để được xiển dương tán thán, cực lực truyền trao như Pháp môn này chắc chỉ có một. Chúng ta đã có cơ hội gặp gỡ, thế nên phải tận lực học tập, hành trì, tin tưởng, y giáo phụng hành, chắc chắn sẽ có lợi ích chân thật [đại lợi ích giải thoát].

Đây là Thệ Nguyện thứ 17 "Chư Phật khen ngợi", xiển dương, tán thán xong thì sao? Bắt đầu truyền trao, chỉ dạy ngay cái Pháp 'Đại lợi ích, không thể nghĩ bàn'. Đó chính là Đại Nguyện thứ 18 "Mười niệm ắt vãng sanh". Chúng ta sẽ cùng học tập trong những phần tiếp theo.

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.