Chánh kinh:
Nhĩ thời Pháp Tạng văn Phật sở thuyết, giai tất đổ kiến, khởi phát vô thượng thù thắng chi nguyện. Ư bỉ thiên nhân thiện ác, quốc độ thô diệu, tư duy cứu cánh, tiện nhất kỳ tâm, tuyển trạch sở dục, kết đắc đại nguyện, tinh cần cầu sách, cung thận bảo trì, tu tập công đức, mãn túc ngũ kiếp. Ư bỉ nhị thập nhất câu-chi Phật độ công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát. Sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.
Lúc bấy giờ, Pháp Tạng nghe lời Phật dạy thảy đều thấy rõ, khởi phát nguyện thù thắng vô thượng. Với thiên, nhân, thiện, ác, quốc độ thô, diệu của các cõi ấy đều tư duy đến rốt ráo, Ngài liền dốc một lòng chọn lựa lấy điều mình mong muốn kết thành đại nguyện, siêng gắng cầu lấy, cung kính, thận trọng gìn giữ, hành trì, tu tập công đức trọn đủ năm kiếp. Với các công đức trang nghiêm của hai mươi mốt câu-chi cõi Phật kia, Ngài hiểu rõ, thông đạt như một cõi Phật. Cõi nước được Ngài nhiếp thọ siêu việt các cõi kia.
Giải:
“Tư duy cứu cánh, tiện nhất kỳ tâm, tuyển trạch sở dục, kết đắc đại nguyện” (Tư duy đến rốt ráo, Ngài liền nhất tâm chọn lựa lấy điều mình mong muốn kết thành đại nguyện): Với mỗi một cái nhân thiện ác, mỗi quả thô diệu của các cõi Phật, Pháp Tạng Bồ Tát đều suy nghĩ, phân biệt tỉ mỉ đến cùng cực, thấu đạt rốt ráo. “Cứu cánh” (rốt ráo) chính là Chân Thật Tế được nói trong kinh, cũng là một pháp cú, thanh tịnh cú chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân. Ngài bèn chuyên nhất tự tâm, chọn lựa lấy ý nguyện độ sanh, khai hóa, hiển thị, nêu lên các thứ y báo, chánh báo trang nghiêm, pháp môn Tịnh Ðộ chẳng thể nghĩ bàn, kết thành đại nguyện để ban cho chúng sanh cái lợi chân thật.
“Nhất kỳ tâm” (Dốc một lòng) chính là nhất tâm. Vì thế, phẩm này mang tên Chí Tâm Tinh Tấn. Nhất tâm tức là Chân Như như sách Chỉ Quán nói: “Nhất tâm đủ mười pháp giới”. Sách Thám Huyền Ký cũng nói: “Nhất tâm là tâm không có một niệm khác”. Sách Giáo Hạnh Tín Chứng Văn Loại còn viết: “Một niệm là tín tâm không có hai tâm nên bảo là một niệm. Ðấy gọi là nhất tâm. Nhất tâm là cái nhân chân thật của báo độ thanh tịnh vậy”. Câu trên giống hệt như câu “nhất tâm kết thành đại nguyện” trong kinh này vậy, chỉ rõ: Nhất tâm chính là cái nhân chân thật của báo độ.
Câu “tu tập công đức, mãn túc ngũ kiếp” (tu tập công đức trọn đủ năm kiếp) được bản Ngụy dịch ghi như sau: “Cụ túc ngũ kiếp, tư duy nhiếp thủ trang nghiêm Phật quốc thanh tịnh chi hạnh” (Tư duy trọn đủ năm kiếp, thâu tóm, giữ lấy hạnh thanh tịnh trang nghiêm Phật quốc). Bản Ðường dịch ghi: “Ư bỉ nhị thập nhất ức chư Phật độ trung sở hữu trang nghiêm chi sự, tất giai nhiếp thủ. Ký nhiếp thủ dĩ, mãn túc ngũ kiếp, tư duy tu tập” (Với tất cả các sự nghiêm tịnh của hai trăm mười ức cõi Phật ấy đều nhiếp thủ cả. Ðã nhiếp thủ xong, tư duy tu tập trọn cả năm kiếp). Bản Tống dịch chép: “Trụ nhất tịnh sở, độc tọa tư duy, tu tập công đức, trang nghiêm Phật sát, phát đại thệ nguyện, kinh ư ngũ kiếp” (Ở nơi thanh tịnh, ngồi một mình tư duy, tu tập công đức trang nghiêm cõi Phật, phát đại thệ nguyện trong suốt cả năm kiếp).
Với câu này, cổ đức có nhiều thuyết khác nhau:
* Các vị Tịnh Ảnh, Cảnh Hưng cùng cho rằng năm kiếp là thời gian tu hành sau khi phát nguyện. Sách Tịnh Ảnh Sớ viết: “Nương nguyện tu hành” và “vì vậy, ở ngay nơi đức Phật ấy, ngài Pháp Tạng ngay trong một thân tu hành năm kiếp”. Sách Lược Tiên cũng ghi: “Ðấy là thời gian tu hành. Trong thời gian năm kiếp, tư duy, siêng năng tu tập, tu thành tựu viên mãn cái hạnh mình đã nguyện. Ðã phát nguyện xong chẳng thể không có hạnh”. Các ý kiến trên đều cho rằng năm kiếp là thời gian tu hành sau khi phát nguyện.
* Năm kiếp chính là thời gian phát nguyện. Sách Hợp Tán bảo: “Năm kiếp là thời gian phát nguyện, tư duy”. Ngài Vọng Tây cũng đồng quan điểm này. Sách Hội Sớ viết: “Phàm Bồ Tát kiến lập Tịnh Ðộ thì cũng giống như thợ giỏi xây dựng đại thành, trước hết phải suy nghĩ, hoạch định họa đồ.... Năm kiếp tư duy như vẽ đồ án”. Quan điểm này cho rằng năm kiếp tư duy giống như trước khi thi công, phải thực hiện đồ án. Sách Hợp Tán đồng quan điểm với sách Hội Sớ, cũng cho rằng năm kiếp là thời gian phát nguyện, chẳng phải là thời gian tu hành sau khi đã phát nguyện. Sách Bình Giải cũng có cùng một nhận định. Các vị ấy đều lấy bản Ngụy dịch làm chứng cứ để lập luận.
* Riêng ngài Gia Tường lại bảo: “Trong năm kiếp tu hành phát nguyện”. Thuyết này nêu cả tu hành lẫn phát nguyện nhưng lấy phát nguyện làm chỗ quy thú, rất phù hợp với ý bản Tống dịch. Do bản Tống dịch trước tiên viết: “Tư duy tu tập” rồi viết tiếp: “Phát đại thệ nguyện, kinh ư ngũ kiếp” (Phát đại thệ nguyện suốt trong năm kiếp), ta thấy: Trong năm kiếp Ngài dùng hạnh thanh tịnh tu tập đại nguyện giữ lấy cõi Phật thanh tịnh. Trọn cả năm kiếp đại nguyện mới thành.
Quan điểm này rất phù hợp với ý hội bản: Phải là sau khi “tinh cần cầu sách, cung thận bảo trì, tu tập công đức, mãn túc ngũ kiếp” (siêng gắng tìm lấy, cung kính, thận trọng gìn giữ, hành trì, tu tập công đức trọn đủ năm kiếp) thì “sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ” (quốc độ được Ngài nhiếp thủ mới siêu việt các cõi ấy). Kinh chép như vậy thật tương hợp với thuyết của ngài Gia Tường. Vì vậy, “năm kiếp tu hành” là thời gian tu hành và phát nguyện.
Chữ “câu-chi” (koti) trong đoạn kinh trên có nghĩa là một ngàn vạn. Trong năm kiếp, tỳ-kheo Pháp Tạng đối với các thứ công đức kỳ diệu, trang nghiêm thù thắng của hai trăm mười ức cõi Phật, đối với mỗi một thứ thiện, ác, thô, diệu sai biệt đều “minh liễu thông đạt như nhất Phật sát” (hiểu rõ, thông đạt như là một cõi Phật).
Qua một thời gian dài lâu suy nghĩ, chọn lựa, tu tập, nhiếp thủ, nên mới có thể kết thành đại nguyện, ngõ hầu “sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ” (quốc độ được Ngài nhiếp thủ vượt trội các cõi kia). Chữ “bỉ” (kia) chỉ hai trăm mười ức cõi Phật. Nay cõi Phật được nhiếp thủ bởi đại nguyện của Pháp Tạng Bồ Tát không những thật sự siêu việt hai trăm mười ức cõi Phật mà còn siêu việt mười phương cõi Phật, cực tả sự thù thắng độc diệu (nhiệm mầu tuyệt vời độc nhất) của cõi Cực Lạc.
Ảnh minh họa: "Cõi nước kia thường có các loài chim màu sắc kỳ diệu, như Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng Mạng. Những thứ chim này, ngày đêm sáu thời, hót lên tiếng hòa nhã..."
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Đoạn đầu: “Tư duy cứu cánh, tiện nhất kỳ tâm, tuyển trạch sở dục, kết đắc đại nguyện” (Tư duy đến rốt ráo, Ngài liền nhất tâm chọn lựa lấy điều mình mong muốn kết thành đại nguyện): Với mỗi một cái nhân thiện ác, mỗi quả thô diệu của các cõi Phật, Pháp Tạng Bồ Tát đều suy nghĩ, phân biệt tỉ mỉ đến cùng cực, thấu đạt rốt ráo.
Sau khi được Đức Phật soi chiếu 210 ức cõi Phật, Tỳ Kheo Pháp Tạng liền nhất tâm chọn lựa lấy bỏ, tu hành tư duy để nhiếp thọ thành một Quốc độ. Quá trình này diễn ra trong 5 kiếp. Trong 5 kiếp này, các vị Tổ Sư Đại Đức có nhiều kiến giải khác nhau, rằng đây là 5 kiếp chỉ có tu hành [sau khi phát nguyện], hay 5 kiếp chỉ để lên phát họa, thiết kế [phát nguyện]; hoặc kết hợp cả 2, vừa lên thiết kế vừa tư duy tu tập. Theo nghĩa lý trong Hội bản này thì là vừa tư duy tu tập vừa phát nguyện [thiết kế, nhiếp thủ]. Rõ ràng đây là một luận cứ thật xác đáng, vì muốn hoàn thành viên mãn công việc này [tư duy, chọn lựa, lấy bỏ, nhiếp thủ thành một...] thì cần phải ở một cảnh giới tương ưng mới thực hiện được, nếu không làm sao hoàn thành được. Giống như để vẽ tranh Phật cho thật đẹp, 'có hồn', thì người thợ vẽ phải có tâm địa thiện lành, hay có căn tánh, có tu tập như thế nào đó vậy.
Chúng ta cùng đọc đoạn Chú Giải lược trích bên trên hoặc đoạn đầy đủ trong sách Chú Giải để cùng học tập, tham khảo thêm về Kinh văn chỗ này.
Ở đây, chúng ta luận bàn một chút ở chỗ "Cõi nước được Ngài nhiếp thọ siêu việt các cõi kia". Rõ ràng, chúng ta đã biết nhiều về các cảnh giới ở cõi Cực Lạc thù thắng vi diệu, vượt trỗi hơn khắp mười phương. Nhưng trong 5 kiếp tu tập, tư duy nhiếp thủ này Tỳ Kheo Pháp Tạng ngài còn tư duy, chọn lựa, nhiếp thủ cách thức, phương pháp để chúng sanh được sanh về [các cõi Phật ấy] nữa. Đây là một vấn đề không kém phần quan trọng, bởi cách thức càng dễ dàng, phổ quát thì chúng sanh càng được nương nhờ, lợi ích. Chứ còn cho dẫu cõi nước thù thắng tốt đẹp đến đâu nhưng cách thức được về quá 'khó nhằn', chúng sanh phàm phu đa phần không kham nổi thì cũng đâu gọi là thù thắng được. Bởi, trong các cõi Phật, có cõi nước lấy tinh tấn làm hạnh vãng sanh, có cõi lấy bố thí, có cõi lấy nhẫn nhục, có cõi lấy trì giới, có cõi lấy trì kinh, trì chú v.v... làm hạnh vãng sanh. Cuối cùng, Ngài đã chọn lựa một cái cách [cái pháp] cho tất cả chúng sanh Thập phương đều có thể nương nhờ, hành trì đặng được về. Vâng, đó chính là hạnh Xưng Danh. Xưng danh [gì]? Xưng danh gì mà phải có đủ công đức để được về, chứ đâu phải muốn xưng cái gì thì xưng đâu? Do vậy, từ đây chính là sự khởi đầu của việc kiến lập cõi Cực Lạc, kiến lập nên câu Vạn đức hồng danh... và Bổn Nguyện thâm trọng nói chung.
Cho nên, câu Phật hiệu bình thường chúng ta đã quá quen thuộc, thật ra hoàn toàn không đơn giản chút nào. Công sức để Ngài tu tập, tích công lũy đức để kiến lập nên [danh tự này] thật chắc cũng không kém việc kiến lập cõi nước Cực Lạc đâu. Việc này thì chỉ Phật cùng Phật mới hiểu được, chúng sanh thì không bao giờ hiểu được, không thể nghĩ bàn được. Chúng sanh chỉ cần "y giáo phụng hành" là được, chẳng cần biết hiểu hay không hiểu làm chi. Thật sự, chúng sanh niệm Phật sẽ thành Phật, niệm Phật sẽ được Phật rước về. Vấn đề quan trọng là khi nào [được Phật rước về], đời này hay đời nào? Trong Kinh Phật nói rõ, khi nào đủ lòng tin, chân thật muốn về, niệm Phật, thì lúc đó [đời đó] sẽ được về. Còn không tin, không muốn về mà niệm thì cũng sẽ lưu lại cái nhân đó cho một đời kiếp nào đó, khi thiện căn, nhân duyên đầy đủ thì sẽ được Phật rước. Rất rõ ràng, minh bạch, chúng sanh tùy ý chọn lựa vậy.
Qua phân tích một chút bên trên chúng ta thấy, chúng sanh tu Pháp môn này nhiều, nhưng không phải ai cũng được thành tựu vãng sanh, lý do là do đâu? Chính là ở chỗ mặc dù tu niệm Phật cầu vãng sanh nhưng lại quen theo kiểu cậy vào Tự lực, cho nên không tin [hay tin không tới] yếu tố Tha lực trong đó. Nhiệm vụ của hành giả chúng ta là gì? Tin tưởng, niệm Phật, nguyện cầu sanh về, chấm hết. Còn lại để Phật lo liệu. Chúng ta niệm Phật cầu sanh nhưng cứ là [tâm] phải thế này, phải thế kia, đã đủ [công đức, phước duyên] chưa? đã đủ thiện căn chưa? nghiệp nặng nghiệp nhẹ, cần phải tiêu nghiệp chướng, lâm chung có chánh niệm được hay không?... Chúng ta thấy những yếu tố này là Tự lực hay Tha lực? Như vậy thì làm sao phát khởi được lòng tin trong sạch thanh tịnh bất nhiễm [bất sanh nghi hoặc] như trong Kinh giáo [yêu cầu] đây?! Cho nên, tu học, chúng ta phải biết chỗ nào là Tông yếu [phải y giáo phụng hành], chỗ nào chỉ là trợ duyên trợ hạnh [tùy duyên, có hay không không quan trọng]. Như thế thì việc hành trì một đời này mới được như các Ngài hay nói là "có thể đoán định được" [thành tựu].
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ (trích lục)
Phẩm 5. Chí Tâm Tinh Tấn
Ngài Hoàng Niệm Tổ