Đắc Thần Túc Thông; Cúng Dường Khắp Chư Phật

NPSTD7

 

Đắc Thần Túc Thông; Cúng Dường Khắp Chư Phật

Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đắc thần thông tự tại, Ba La Mật Đa. Ư nhất niệm khoảnh, bất năng siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật sát, châu biến tuần lịch cúng dường chư Phật giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều được thần thông tự tại, Ba La Mật Đa. Trong khoảng một niệm chẳng thể vượt qua ức na-do-tha trăm ngàn cõi Phật, đến khắp tất cả [các cõi ấy] cúng dường chư Phật thì chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện thứ mười: Thần Túc Thông; nguyện mười một: Cúng dường khắp chư Phật)

Giải:
Chương này nói đến nguyện thứ mười: “Thần Túc Thông” và nguyện mười một: “Cúng dường khắp chư Phật”. Lời kinh nói gộp hai nguyện. Trong câu “châu biến tuần lịch cúng dường chư Phật” (đến khắp tất cả cúng dường chư Phật), chữ “tuần lịch” (巡歷: đến khắp, đi qua trọn khắp) là nguyện thứ mười, “cúng dường” là nguyện thứ mười một.
“Ba La Mật Đa” (Paramita) hoặc Ba La Mật dịch là Sự Cứu Cánh, Ðáo Bỉ Ngạn, Ðộ Vô Cực, hoặc chỉ dịch gọn là Ðộ. Ðại hạnh của Bồ Tát có thể hoàn thành trọn vẹn hết thảy tự hạnh và sự nghiệp hóa độ người khác, nên gọi là Sự Cứu Cánh. Bồ Tát nương những đại hạnh ấy có thể từ bờ này sanh tử vượt đến được bờ kia Niết Bàn rốt ráo nên gọi là Ðáo Bỉ Ngạn (Ba La là bờ kia, Mật Đa là đến, theo văn phạm phương kia (Ấn Độ) là Bỉ Ngạn Đáo, tiếng Hán là Đáo Bỉ Ngạn). Do đại hạnh ấy sẽ thấu đạt được sự sâu rộng của các pháp nên gọi là “độ vô cực”.
Sanh về cõi kia liền đầy đủ thần thông (Thần là diệu dụng chẳng thể lường nổi, Thông là dung thông tự tại) tự tại vô ngại, có thể triệt để quán triệt hết thảy tự hạnh và sự nghiệp hóa độ người khác, nên bảo là “thần thông tự tại Ba La Mật Đa”.
Câu “ư nhất niệm khoảnh… siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật sát” (trong khoảng một niệm... vượt qua ức na-do-tha trăm ngàn cõi Phật) diễn tả Thần Túc Thông, còn gọi là Thần Túc Trí Thông, Thần Cảnh Trí Thông, Thân Như Ý Thông, Thân Thông. “Na-do-tha” (Nayuta) là Ức (một vạn vạn). Thời cổ, Trung Hoa hiểu chữ Ức theo ba cách khác nhau: mười vạn, trăm vạn, ngàn vạn. Vì vậy, các vị cổ đức cũng phán định con số này không đồng nhất.
Sách Hội Sớ giảng chữ “thần túc” (cũng gọi là Như Ý Túc) như sau:
“Thần Túc có ba loại:
1. Vận thân hành: Bay trên không giống như chim bay.
2. Thắng giải thông: Với chỗ xa xôi nhất, chỉ tác ý tư duy liền tới ngay đó.
3. Ý thế thông: Với chỗ xa xôi nhất, tâm vừa nghĩ đến, thân đã ở đấy”.
Sách Ðại Luận lại bảo: “Như Ý Thông có ba thứ: Năng Đáo, Chuyển Biến, Thánh Như Ý.

Năng Đáo có bốn thứ:
1. Một là thân bay được đến đó như chim không trở ngại.
2. Biến xa thành gần, chẳng qua đó mà đến được nơi ấy.
3. Biến mất chỗ này hiện ra chỗ kia.
4. Trong một niệm đến ngay nơi đó.
Chuyển Biến là biến nhỏ thành lớn, biến lớn thành nhỏ, biến một thành nhiều, nhiều biến thành một. Với các vật đều chuyển biến được. Ngoại đạo biến hóa không lâu được hơn bảy ngày. Chư Phật và đệ tử chuyển biến tự tại, chẳng có gần, xa.
Thánh Như Ý là ngay trong lục trần, có thể quán vật bất tịnh chẳng đáng ưa là tịnh, quán vật khả ái thanh tịnh thành vật bất tịnh. Chỉ mình đức Phật đắc pháp Như Ý Trí này”.
Câu “ư nhất niệm khoảnh” (trong khoảng một niệm) ý nói thời gian rất ngắn. Bao lâu là một Niệm? Có nhiều thuyết khác nhau, xin xem lời giải thích trong phần trước. Theo sách Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập thì một sát-na là một niệm, cũng như theo Ðại Luận: “Trong khoảng khảy ngón tay có sáu mươi sát-na”, ta thấy rằng một niệm lâu bằng một phần sáu mươi thời gian khảy ngón tay. Như vậy, một niệm cực ngắn ngủi.
Trong khoảng một sát-na cực ngắn như thế đã có thể “siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật sát châu biến tuần lịch” (vượt qua ức na-do tha trăm ngàn cõi Phật, đi khắp tất cả) thì hiển nhiên, thần thông diệu dụng của người cõi Cực Lạc chẳng thể nghĩ bàn.
“Na-do-tha” là một con số, từ xưa đã có nhiều thuyết. Nhỏ nhất là như sách Huyền Ứng Âm Nghĩa bảo: “Na-do-tha là mười vạn của Trung Quốc”. Lớn hơn là: “Ðời Tùy, na-do-tha là một ngàn vạn” (các thuyết khác chẳng dẫn ra). Như vậy, khó lòng xác định na-do-tha lớn bao nhiêu, nhưng ta có thể đoan chắc “na-do-tha trăm ngàn” là một con số rất lớn đến nỗi khó thể tính biết nổi.
Trong một sát-na vượt qua được những cõi Phật nhiều đến như vậy là ngụ ý: Đến được những cõi rất xa.
Câu “châu biến tuần lịch” (đi khắp tất cả) ngụ ý: Con số cõi nước họ đến cực lớn. Câu “cúng dường chư Phật” ngụ ý: Tuy phát khởi lên rất nhiều sự, nhưng chỉ trong khoảng một niệm đều viên mãn thành tựu được hết tất cả những sự việc ấy. Rõ ràng cõi nước Cực Lạc sự sự vô ngại, một tức là nhiều, nhiều tức là một, kéo dài, rút ngắn đồng thời, hạt cải dung nhập núi Tu Di, mười phương chẳng rời khỏi nơi mình đang trụ. Trong một niệm cúng trọn tất cả, ba đời nào khác một niệm, đương hạ tức thị, thâu tóm trọn vẹn không sót. Vì vậy, ta thường nói: “Hoa Tạng nào khác Cực Lạc, Tịnh Ðộ chứa trọn sự huyền diệu”.

 

tght55

Ảnh minh họa: Thế giới hải Hoa Tạng

Đoạn: “Thần Túc có ba loại:

1. Vận thân hành: Bay trên không giống như chim bay.
2. Thắng giải thông: Với chỗ xa xôi nhất, chỉ tác ý tư duy liền tới ngay đó.
3. Ý thế thông: Với chỗ xa xôi nhất, tâm vừa nghĩ đến, thân đã ở đấy”.

Con người chúng ta sống trên quả địa cầu này, một trong những điều mong ước lớn lao xuyên suốt lịch sử văn minh nhân loại đó là gì? Vâng, đó chính là... 'bay được' [như chim], bay càng nhanh, càng xa càng tốt, không bị các trở ngại vật cản trên mặt đất. Thế rồi, với mong ước ấy, các phương tiện khoa học kỹ thuật ra đời, máy bay, tàu vũ trụ... giúp con người đạt được điều ước 'bay', bay từ nước này qua nước khác, từ lục địa này qua lục địa khác, rồi từ hành tinh này đến hành tinh khác (mặt trăng, sao hỏa). Để đạt chút ít 'thần thông' trên, vượt qua được những khoảng không gian [hạn hẹp, trong Phật giáo] phải khó khăn, dành nhiều tâm huyết, thời gian đến vậy sao?! Đây là chỉ đề cập đến một phần rất nhỏ ý đầu tiên [đơn giản nhất] của Thần Túc Thông của chúng sanh cõi Cực Lạc. Về cõi ấy, lập tức có được tất cả, nhờ nương vào Nguyện lực của Phật. Rõ ràng, giữa sức người [cho là cả nhân loại luôn!] với sức Phật là cả một trời một vực! Trong đạo cũng vậy thôi, chẳng khác tí nào, chúng ta muốn cầu sanh về cõi ấy, ngày ngày niệm Hồng danh Giáo chủ cõi ấy, rồi nương vào sức gì để được toại nguyện đây?! Đừng có mà tự 'thiết kế' [như thiết kế máy bay] nhé, đi chẳng tới đâu đâu.

Đoạn cuối: Câu “châu biến tuần lịch” (đi khắp tất cả) ngụ ý: Con số cõi nước họ đến cực lớn. Câu “cúng dường chư Phật” ngụ ý: Tuy phát khởi lên rất nhiều sự, nhưng chỉ trong khoảng một niệm đều viên mãn thành tựu được hết tất cả những sự việc ấy. Rõ ràng cõi nước Cực Lạc sự sự vô ngại, một tức là nhiều, nhiều tức là một,...

Chúng ta đang ở đây, [tâm] ưa thích làm những việc thiện lành lớn nhỏ để cứu đời, giúp người. Đồng ý, xin tán thán, rất tốt! Nhưng bên cạnh đó là 'tổn thất' không ít: thời gian, tâm lực, trí lực, thể lực... mà những thứ này của chúng ta ở đây lại rất eo hẹp, hạn hữu. Chi bằng tính toán thiệt hơn, dành chút ít 'vốn liếng' [ít ỏi] đó để tích lũy Tịnh nghiệp tư lương để sanh về cõi ấy cái đã. Một khi đã sanh về cõi ấy rồi, một mặt là giải quyết triệt để được 'bài toán' sanh tử luân hồi bao thỉ kiếp đến nay, một mặt muốn làm việc thiện việc lành gì, ở bất cứ nơi đâu trong khắp "Hoa Tạng hải chúng" [Pháp giới chúng sanh], thì như trong Kinh nói “châu biến tuần lịch” (đi khắp tất cả), cúng dường Chư Phật, làm Phật sự... trong một sát-na [một niệm]. Mọi chuyện là như vậy. Vấn đề là, chúng ta cần một chút sáng suốt [và lòng dũng cảm] để chọn lựa con đường hành đạo đúng đắn nhất cho mình. Hạnh phúc chỉ đến với những người can đảm, thật vậy!

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.