Dẫu Được Bổn Sư Và Chư Phật Cùng Khuyên Tin Tưởng, Nhưng Kẻ Nghi Trong Đời Vẫn Còn Rất Nhiều

NPSTD7

 

Dẫu Được Bổn Sư Và Chư Phật Cùng Khuyên Tin Tưởng, Nhưng Kẻ Nghi Trong Đời Vẫn Còn Rất Nhiều

Nhắn với người đời

Tâm tánh chúng sanh bằng với chư Phật, do mê trái nên luân hồi chẳng ngơi. Như Lai từ mẫn, tùy cơ thuyết pháp, khiến cho khắp hàm thức đều theo đường về nhà. Hiềm rằng căn tánh muôn thứ chẳng giống nhau, nếu không phải người lỗi lạc sẽ khó thể thoát khỏi! Nhân đấy, bèn đặc biệt mở ra một môn Tịnh Độ để nhiếp khắp hết thảy: Thượng trung hạ căn, Ngũ Nghịch, Thập Ác tướng địa ngục hiện, nhất niệm dốc lòng thành, liền lên được bờ kia. Đẳng Giác Bồ Tát đức bằng với Phật, còn phải vãng sanh mới chứng được Bồ Đề. Phàm phu sát đất, đầy đủ phiền não, chẳng chịu niệm Phật, làm sao tốt lành cho được? Nhắn với người đời, cùng sanh tín nguyện, chấp trì Phật hiệu, từ đầu đến cuối không thay đổi, đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn, mau ra khỏi Ngũ Trược, lên thẳng chín phẩm, thấy Phật nghe pháp, tự chứng Vô Sanh, nương đại nguyện luân phổ độ hữu tình.

 

Sáu phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài

Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn do Như Lai tâm bi triệt để phổ độ chúng sanh, khiến cho những kẻ không có sức đoạn Hoặc, hàng phàm phu sát đất tín nguyện trì danh liễu thoát ngay trong đời này, cùng làm bầu bạn với Quán Âm, Thế Chí. Trên đến Đẳng Giác Bồ Tát địa vị gần với Phật Quả, còn cần phải vãng sanh, mới thành Chánh Giác. Chí viên, chí đốn, thông trên thấu dưới, vượt trội các pháp môn đã được nói trong một đời giáo hóa tại một phương. Vì thế, khi đức Phật giảng kinh Di Đà, sáu phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài cùng một giọng khen ngợi, xưng là kinh Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm. Lại khen đức Thích Ca Thế Tôn ta có thể làm được chuyện hy hữu rất khó, đức Thế Tôn ta tự nêu túc nhân rằng: Ta ở trong đời ác Ngũ Trược, làm chuyện khó khăn này, chứng được Bồ Đề, vì hết thảy thế gian nói pháp khó tin này, thật là rất khó, khiến cho người nghe tin nhận phụng hành, diễn bày rốt ráo bổn hoài xuất thế vậy.

 

Bọn phàm phu chúng ta [chỉ có thể] ngửa tin lời Phật, y giáo phụng hành
Nhưng pháp môn này rất sâu khó lường, dẫu được Bổn Sư và chư Phật cùng khuyên tin tưởng, thế nhưng kẻ nghi trong đời vẫn còn rất nhiều! Chẳng những thế trí phàm tình không tin, ngay cả những hàng tri thức thâm hiểu sâu xa Tông, Giáo vẫn còn nghi hoặc. Không những bậc tri thức không tin mà ngay cả Thanh Văn, Duyên Giác đã chứng Chân Đế, nghiệp tận tình không cũng vẫn còn nghi hoặc! Chẳng những hàng Tiểu Thánh không tin, ngay đến bậc Quyền Vị Bồ Tát hãy còn nghi ngờ! Cho đến ngay cả bậc Pháp Thân đại sĩ tuy có thể tin chắc, nhưng vẫn chưa thể thấu nguồn tột đáy. Ấy là vì pháp môn này lấy Quả Giác làm cái tâm để tu nhân, toàn thể là cảnh giới Phật. Chỉ có Phật với Phật mới có thể rốt ráo thấu hiểu cùng tột, trí của những hạng người kia dễ hòng biết được nổi! Bọn phàm phu chúng ta ngửa tin lời Phật, y giáo phụng hành, tự được lợi ích chân thật. Nếu được nghe pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này chính là nhiều kiếp đã trồng sâu thiện căn, huống chi còn tin nhận phụng hành nữa ư?

 

[Nhiều] không thể dùng toán số thí dụ để biết được nổi!
Truy nguyên, từ khi đại giáo truyền sang Đông, Viễn Công sáng lập Liên Xã. Từ đấy trở đi, bậc cao nhân trong Tông, trong Giáo, không ai chẳng hoằng dương, khen ngợi, như Trí Giả, Từ Ân, Thanh Lương, Vĩnh Minh v.v… vì pháp này là môn trọng yếu nhất để nhập đạo cho người sơ cơ, là bước cuối cùng để thành Phật trong kinh Hoa Nghiêm. Do vậy, hạng phàm phu đầy dẫy phiền não nương theo Phật lực để liễu sanh tử, không thể dùng toán số thí dụ để biết được nổi! Nhằm vào thời Nam Tống, bậc tiên đức trong tông ta có cư sĩ Long Thư, tên là [Vương] Nhật Hưu, tự là Hư Trung, thừa nguyện tái lai, dùng thân thuyết pháp: Tuy sống trong trần tục, nhưng chẳng lập gia đình, tuy đậu quốc học nhưng chẳng làm quan, phát huy tâm tông Nho - Phật, dạy dỗ hàng đệ tử có đủ lòng tin. Lại muốn cho đồng nhân đều cùng sanh Tịnh Độ, nên soạn sách này để hướng dẫn rộng khắp. Lời lẽ đơn giản nhưng mẫu mực, lý lẽ sâu xa nhưng rõ rệt, thuận theo căn cơ kém cỏi, khéo léo dẫn dụ dần dần, dốc lòng đau đáu chiều theo tâm họ, không gì chẳng thấu. Sợ họ ngại khó chẳng vào, nên dùng cách Thập Niệm buổi sáng để làm phương tiện tối thắng nhiếp trọn các căn cơ; đợi đến khi vào sâu dần dần, như được thức ăn ngon lành, đã biết mùi vị, liền đối với những pháp nhật dụng sẽ tự khăng khắng vâng giữ, chỉ nghĩ đến Phật, nào phải chỉ hạn cuộc trong [thời gian niệm Phật chừng bằng] một bữa trà; lấy đó làm nề nếp nhất định! Nếu có thể đầy đủ tín nguyện, cả đời kiên trì Thập Niệm, ắt quyết định vãng sanh. Huống chi lại gia công dụng hạnh!

 

Nhờ niệm Phật, quỷ bèn chẳng hiện nữa
Chẳng phải chỉ có thế, dù cho hoàn toàn không có tín nguyện, không tu trì, nhưng biết đến thánh hiệu Di Đà thì cũng là thiện căn chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Là vì do biết [Phật hiệu] nên hễ gặp cảnh đụng duyên, sẽ có thể đề khởi. Như Trần Xí bị oán quỷ [là những kẻ từng bị] chính ông ta giết chết, kéo đến bức bách; nhờ niệm Phật, quỷ bèn chẳng hiện nữa. Do vậy, cả đời niệm Phật. Lâm chung vãng sanh lại còn có thể quay trở lại tự thuật tiền nhân, đích thân hiện diệu tướng sanh Tây của chính bản thân. Nếu trước kia, chưa từng được nghe biết [danh hiệu Phật] ắt sẽ bị quỷ đoạt mạng, mãi mãi luân hồi. Do vậy, ba phước trong Quán Kinh thì phước đầu tiên là những điều thiện thế gian, đều có thể dùng để hồi hướng, và trong chín phẩm thì phẩm cuối cùng chính là những kẻ tướng địa ngục đã hiện còn được vãng sanh. Còn những ai nhất tâm bất loạn, diệu quán viên thành, chứng tam-muội mà vãng sanh thì không cần phải bàn đến nữa! Do vậy, biết pháp môn Tịnh Độ nhiếp khắp mọi căn cơ hoàn toàn chẳng bỏ sót ai, tốt lành thay, cao quý thay, lớn lao thay!

 

Tông chỉ của sách là gì?
Sách ấy lấy lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật, ngay trong đời này quyết định được vãng sanh làm Tông. Đọc kỹ sẽ đoạn nghi sanh tín, khuyên khắp mọi người tu trì. Riêng nêu những sự tích vãng sanh để khuyên lơn, cũng như những việc cả một đời Vương cư sĩ đã làm, cuối sách chỉ rõ: Thượng trung hạ căn không căn nào chẳng được thâu tóm. Ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh không pháp nào chẳng phô bày rõ ràng. Do vậy, bèn khắc in phổ biến rộng khắp để hòng đáp tạ chừng bằng một giọt nước biển trong trần sát “công Phật Thích Ca thuyết pháp, chư Phật chứng minh, liệt tổ truyền đăng, tâm đại từ bi soạn sách của Vương cư sĩ” mà thôi!

 

spcp11

Ảnh minh họa: "Sáu phương Chư Phật khen ngợi" (Kinh A Di Đà bằng tranh)

Đoạn đầu: Đẳng Giác Bồ Tát đức bằng với Phật, còn phải vãng sanh mới chứng được Bồ Đề. Phàm phu sát đất, đầy đủ phiền não, chẳng chịu niệm Phật, làm sao tốt lành cho được? Nhắn với người đời, cùng sanh tín nguyện, chấp trì Phật hiệu, từ đầu đến cuối không thay đổi, đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn, mau ra khỏi Ngũ Trược, lên thẳng chín phẩm, thấy Phật nghe pháp, tự chứng Vô Sanh, nương đại nguyện luân phổ độ hữu tình. 

Thật sự là tu Pháp môn này cần nhất là gì vậy? Dĩ nhiên là như lời Phật lời Tổ dạy: sanh tín, phát nguyện, chấp trì Phật hiệu. Tức là ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh tròn đầy chẳng thiếu. Thế nhưng với người tu lâu năm, vấn đề còn ở chỗ, đó là "từ đầu đến cuối không thay đổi", tức là cả đời không đổi, cái này mới khó. Nên tu hành rất cần những thiện tri thức, những hội chúng, đồng tu, cùng đồng lòng đồng chí hướng, để khuyên lơn, tương trợ, nương tựa lẫn nhau. Đường đời, đường đạo vốn nhiều gập gềnh khúc khuỷu, sẽ có những lúc rất cần 'chị ngã em nâng', khi đó những đồng tu đồng đạo tâm huyết, dù chỉ một lời khuyên, một lời chia sẻ, động viên, một cái tâm chân thành... coi vậy mà cần thiết lắm đấy. Lúc đó họ là những 'thiện tri thức' thật sự của chúng ta đấy, chứ chẳng ở đâu xa.

Đoạn tiếp theo: Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn do Như Lai tâm bi triệt để phổ độ chúng sanh, khiến cho những kẻ không có sức đoạn Hoặc, hàng phàm phu sát đất tín nguyện trì danh liễu thoát ngay trong đời này, cùng làm bầu bạn với Quán Âm, Thế Chí.

Đến với đạo cái cần kíp đó là sự 'giác ngộ'. Giác ngộ điều gì? Giác ngộ được rằng cuộc đời này khổ lắm, tương lai [nếu không tu hành] cũng khổ lắm, chẳng sung sướng gì đâu, chẳng phải chết là hết [khổ] đâu. Rồi sao nữa? Phải có tâm hướng thượng, mong cầu giải thoát, hết khổ mới được. Chứ biết khổ rồi, đang phải gánh chịu rồi, nhưng cam chịu, nhẫn nhục cho qua ngày đoạn tháng, gọi là 'cho xong một kiếp người' thì thôi... Cần một sự 'bừng tỉnh', 'một cuộc cách mạng' trong tâm, phát đại chí, lập đại nguyện. Dám gánh vách trách nhiệm, dốc lòng cầu đạo để cứu mình cứu người mai sau. Việc này trên lý thuyết nói là vậy, nhưng thực tế cũng phải cần 'thiện căn, phước đức, nhân duyên' [đã từng gieo] của mỗi người vậy. Chẳng phải tự nhiên mà bắt gặp được nhân duyên tốt lành, gặp được thiện tri thức dìu dắt vào đạo, rồi chịu tiếp nhận, thâm nhập, huân tập... Tất cả đều có nhân quả cả. Rồi một khi đã theo thì theo tới cùng, đã tin thì tin cho tới nơi [chẳng nghi hoặc nữa], chăm chỉ dụng công, kiền thành chẳng đổi. Thế thì "liễu thoát ngay trong đời này, cùng làm bầu bạn với Quán Âm, Thế Chí" chẳng phải là việc trên giấy bút nữa, mà là thực tế vậy.

Đoạn tiếp: Nhưng pháp môn này rất sâu khó lường, dẫu được Bổn Sư và chư Phật cùng khuyên tin tưởng, thế nhưng kẻ nghi trong đời vẫn còn rất nhiều!...

Vì sao Pháp môn này chính Đức Phật hay Chư Tổ nói là khó tin đến vậy? Lý do là vì như Chư Tổ giải thích "Ấy là vì pháp môn này lấy Quả Giác làm cái tâm để tu nhân, toàn thể là cảnh giới Phật" thế nên "chỉ có Phật với Phật mới có thể rốt ráo thấu hiểu cùng tột", các cảnh giới còn lại không thể làm được như vậy. Vậy phàm phu chúng ta phải làm gì? Rất đơn giản, chúng ta chẳng cần phải bận tâm nhiều chi cho mệt [mà cũng chẳng được gì], chỉ cần "ngửa tin lời Phật, y giáo phụng hành", ắt "tự được lợi ích chân thật". Như vậy nghĩa là thế nào? Chẳng hạn, Phật nói rằng: "Chúng sanh muốn cầu sanh về nước ta, hãy niệm danh hiệu ta đi, ta sẽ rước về". Đây chẳng phải là lời nói suông mà là Thệ Nguyện đã chứng thành của Ngài, nhờ tu hành tích công lũy đức vô lượng kiếp mới được vậy, nên mới gọi là "quả giác". Phật hiện tại đã tại thế thành Phật, nên lời Thệ Nguyện kia là không hư dối. Việc còn lại của chúng ta là gì? Tin tưởng, y giáo phụng hành, ắt có thành tựu. Vậy sao thấy có rất nhiều người niệm Phật quá trời mà sao cuối đời gặp ách nạn này kia, chẳng được Phật rước? Chúng sanh hay nhìn vào những chỗ này nên sanh ra hoài nghi lời Phật thuyết. Cho nên nói thì dễ nhưng đi sâu vào thực hiện chẳng phải là việc giản đơn. Cho nên Kinh phải ghi rõ là 'chí tâm tin ưa', lòng tin chẳng phải bình thường mà phải cần "chí tâm" mới được. Như thế mới không bị giao động, mới giữ được lâu bền. Những người niệm Phật quá trời kia dù cũng muốn vãng sanh lắm nhưng không có được cái này đành thất bại. Rồi câu Kinh này cũng khó hiểu khó lãnh hội quá, Chư Phật, Chư Tổ xuất thế liễu giải ra một lần nữa cho chúng sanh biết cách mà thọ trì. Đó chính là hai cách chính đích thân A Di Đà Phật ngài thị hiện để truyền trao lại cho chúng sanh. [Chúng ta đã chia sẻ trong bài Đại Nguyện Thứ 18]. Đừng nói rằng là theo tư tưởng này tư tưởng kia ở đây nhé. Chánh Pháp chỉ có một và chỉ một mà thôi, hoàn toàn không có hai. Nếu nói thế chúng sanh dễ bị hiều nhầm [rồi không tin tưởng mà tội nghiệp họ]. Ví dụ, Đại nguyện 18 thì chỉ có một Đại nguyện 18, Đại Nguyện 19 thì chỉ có một Đại nguyện 19, chẳng có cái thứ hai nào khác cả. Việc của Phật, Bồ Tát, các Ngài thị hiện, là liễu giải ra từ lời Kinh, để thêm một bước nữa, giúp chúng sanh dễ thọ dụng, y giáo phụng hành. Cho nên, dẫu cho một ngàn Đức Phật xuất thế đi nữa, các Ngài cũng liễu giải y hệt vậy thôi, chẳng chút sai lệch nào hết, bất luận ở thời kỳ nào, căn cơ chúng sanh ra sao... hay ở bất cứ quốc độ nào trong vô lượng vô biên Phật quốc trong pháp giới. Chúng ta nói rõ ràng như thế để biết, Chánh pháp là Chánh pháp, ai tin nhận hay không là việc của họ. Ai bài bác, phỉ báng thì tự họ phải chịu nhận lấy nhân quả vậy. Xin nhắc lại rằng, Chánh Pháp mãi mãi là Chánh Pháp, mãi mãi trường tồn, dẫu từ kim khẩu của ngàn vạn Đức Phật khác nhau xuất thế nói ra vẫn hệt như vậy, không khác. Chánh pháp hoàn toàn không phụ thuộc vào không gian, thời gian, đối tượng [thuyết, nghe], lại càng chẳng bị chi phối bởi bất cứ vị nào [liễu giải, thuyết giảng] cả. Có chăng chỉ là liệu có thuyết đúng và hành đúng theo Chánh Pháp hay không mà thôi. 

Những nội dung còn lại chúng ta cố gắng học tập lời Chư Tổ dạy, thật sự có nhiều nội dung rất giá trị, lợi ích thiết thực. 

 

Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên

Lời đề từ và tựa bản in lại Long Thư Tịnh Độ Văn

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.