Do Chẳng Biết Đây Là Pháp Môn Đặc Biệt Trong Phật Pháp, Đều Cứ Chiếu Theo Nghĩa Lý Của Các Pháp Môn Thông Thường Nên Chẳng Chịu Tin

NPSTD7

 

Do Chẳng Biết Đây Là Pháp Môn Đặc Biệt Trong Phật Pháp, Đều Cứ Chiếu Theo Nghĩa Lý Của Các Pháp Môn Thông Thường Nên Chẳng Chịu Tin

Lấy chuyện xe trước [bị đổ] để làm gương

Đọc thư ông gởi đến, văn từ lẫn ý nghĩa đều hay, không thể thay đổi được, nên chẳng ghi lời phê. Ông hai mươi mốt tuổi, biết làm văn làm thơ, chính là đời trước có thiện căn, nhưng hãy nên khiêm tốn náu mình, đừng cậy thông minh khinh người, học vấn càng rộng rãi, càng cảm thấy không đủ thì sự thành tựu sau này sẽ khó thể suy lường được! Mười năm trước, pháp sư Đế Nhàn có một đồ đệ tên Hiển Ấm là người cực thông minh, xuất gia năm mười bảy, mười tám tuổi, nhưng khí lượng quá nhỏ, không chịu thua kém một chút nào! Lần đầu tiên giảng Tiểu Tòa xong, lễ sư phụ, sư phụ trọn chẳng chê ông ta giảng không hay, chỉ nói âm thanh quá nhỏ. Do một câu nói ấy liền ngã bệnh, mà ngài Đế Nhàn là người một mực làm cho ông ta thường sanh tâm hoan hỷ. Vì thế, [Hiển Ấm] tánh kiêu ngạo tăng trưởng hằng ngày, hằng tháng. Sau này, qua Nhật Bản học Mật Tông, những bài viết nhằm hoằng dương Mật Tông của ông đều gởi đăng trên tờ lâm san của Thượng Hải Cư Sĩ Lâm. Ông tự đặt mình vào vị trí cao cả, cho rằng chỉ có ta là cao. Sau đó về nước, đến chùa Quán Tông thăm thầy. Ngài Đế Nhàn nói: “Ông thanh danh rất lớn, tiếc là chưa thật sự dụng công, hãy nên bế quan ba năm để dụng công thì mới nên”. Ông ta vừa nghe câu nói ấy như dao cứa tim, ngay bữa ấy liền sanh bệnh. Ngày hôm sau ôm cơn bệnh đi qua Thượng Hải Cư Sĩ Lâm, được hơn một năm liền mất.

Ông ta mất không lâu, Quang đến chùa Thái Bình ở Thượng Hải, một thành viên của Cư Sĩ Lâm là Châu Thạch Tăng đến thăm, hỏi tình hình lúc Hiển Ấm mất, [ông Châu] nói: “Hồ đồ! Phật chẳng niệm được, mà chú cũng chẳng niệm được”. Đấy chính là hạng đại pháp sư hiển mật viên thông, tự cảm thấy trong đời không có ai sánh bằng, do không tự lượng, cậy vào huệ căn đời trước, thành ra mới hai mươi hai, hai mươi ba tuổi đã đoản mạng, chết thành con quỷ hồ đồ, chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Nếu như Hiển Ấm chẳng tự cao, khiêm tốn náu mình thì những học giả Trung Quốc chưa chắc trỗi hơn ông ta được! Quang thương Hiển Ấm do đó mà chết nên lấy chuyện xe trước [bị đổ] để làm gương cho ông.

 

Hễ lúc nào rảnh thì [dụng công] niệm Phật, chẳng nhớ số [không nhất thiết]
Hiện thời, Quang đã khổ không thể nói nổi, mục lực lẫn tinh thần đều không đủ, hằng ngày đã có người đến [hỏi han], lại còn thư tín bốn phương, đừng nói chi chuyện trả lời, chỉ đọc [không thôi] cũng phải mất nhiều công sức. Quang ở Phổ Đà từ năm Quang Tự 19 (1893) cho đến năm Dân Quốc thứ năm (1916), hơn hai mươi năm khá yên vui, suốt năm không ai đến thăm, không một lá thư nào gởi đến. Từ năm Dân Quốc thứ sáu (1917), ông Vương Ấu Nông đem một lá thư in ra mấy ngàn bản, ông Từ Úy Như đem ba lá thư in ra mấy ngàn bản, rồi năm sau lại in Văn Sao. Từ đấy, một người truyền hư, vạn người truyền thật. Lại do chẳng tự lượng, khắc in các sách để mong lợi người. Hai mươi năm qua, đúng là chuyên bận bịu vì người khác, nay đã già rồi, mong bế quan làm kế lánh phiền. Đối với công khóa sớm tối, ngoài việc theo cả chùa thực hiện công khóa ra, mỗi tối niệm thêm chú Đại Bi năm mươi lượt, hoặc hai mươi lăm lượt. Ngoài ra, hễ lúc nào rảnh thì niệm Phật, chẳng nhớ số, bởi nhớ số tốn sức.

 

Chỉ cần đầy đủ tín nguyện liền có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương
Ông có thời gian rộng rãi, sức lực mạnh mẽ, hãy nên nỗ lực nghiên cứu, tu trì pháp Tịnh Độ. Đây chính là đại pháp để phàm phu liễu sanh tử ngay trong đời này. Pháp này nếu không có túc căn thì đừng nói là người tầm thường không thể thấu hiểu triệt để, ngay cả bậc cao nhân lỗi lạc triệt ngộ tự tâm thâm nhập kinh tạng cũng quá nửa là không thể thấu hiểu triệt để được! Do họ chẳng biết đây là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp, đều cứ chiếu theo nghĩa lý của các pháp môn thông thường nên chẳng chịu tin. Hoặc là có người tin, nhưng sợ chuyên hoằng dương Tịnh Độ, người ta sẽ coi thường mình, vì thế chẳng chịu đề xướng. Phải biết: Tu bất luận pháp môn nào, nếu Phiền Hoặc chưa đoạn, chắc chắn không liễu được sanh tử. Chỉ có một pháp này, chỉ cần đầy đủ tín nguyện liền có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Ông chớ nên coi qua loa, mà phải đọc kỹ nghĩ chín mới biết lời Quang không lầm!


Hiện nay, người giảng kinh cũng không ít, nhưng mỗi người tùy theo ý mình, ông nên tự tu trì ở chỗ [cư sĩ Giang] Dịch Viên, đến khi đã có chủ ý rồi, chẳng ngại gì tùy hỷ [tham dự] giảng tòa của các pháp sư. Ông phải tự thương mình, Quang mến ông, nên chỉ có lần này là viết hai trang, sau này cũng không rảnh rỗi để răn dạy nhiều lần được nữa đâu!

 

DPADD115

Nam Mô A Di Đà Phật

Đoạn đầu: Đọc thư ông gởi đến, văn từ lẫn ý nghĩa đều hay, không thể thay đổi được, nên chẳng ghi lời phê. Ông hai mươi mốt tuổi, biết làm văn làm thơ, chính là đời trước có thiện căn, nhưng hãy nên khiêm tốn náu mình, đừng cậy thông minh khinh người, học vấn càng rộng rãi, càng cảm thấy không đủ thì sự thành tựu sau này sẽ khó thể suy lường được!

Thật sự, Phật Pháp bao la, sở học của chúng ta như hạt cát trong sa mạc, giọt nước trong đại dương vậy. Càng tu học càng thấy mình nhỏ bé, thấp kém thì mới đúng. Chứ chẳng phải tu học càng lâu càng thấy mình biết nhiều hay hơn người này kia, như vậy là đang tăng trưởng ngã mạn, cần phải gấp rút điều chỉnh lại đạo tâm của mình. Vì sao lại [có vẻ nghịch lý] như vậy? Dạ vâng, dân gian có câu là: Ếch ngồi đáy giếng [thấy trời bằng vung]. Khi mới bắt đầu, sơ cơ học tập, chưa hiểu biết nhiều, sự thấy biết còn hạn hẹp thì có thể [do vô minh] nên cái gì cũng cho là giỏi là nhất; rồi một khi sở học ngày càng nhiều [giống như ếch ra khỏi giếng] thì thấy thật sâm la vạn trượng, lúc đó mới thấy cái thấy cái biết của mình thật nông cạn biết bao, chẳng khác nào giọt nước trong biển cả. Đấy chính là sự thấy biết [cái thấp kém] của mình, như thế mới hợp lẽ. Chứ còn tu học càng lâu lại càng thấy mình 'to lớn, vĩ đại' [hơn người khác] thì thôi... đó rõ ràng là vẫn chưa thoát ra được 'cái miệng giếng'. Đó là do đâu? Đó chính là 'sở tri chướng', tức bị chính cái kiến thức thu thập được làm chướng ngại việc tu học của chúng ta, giống như con tằm tự nhả tơ thành kén bao lấy mình vậy, không cách chi thoát ra được. Lâu dần, điều này sẽ thành 'thế trí biện thông' như trong Kinh Phật nói, tức là chẳng chịu [hạ mình] 'nghe' ai nữa cả, kể cả lời Phật thuyết trong Kinh. Từ đó sanh ra tà kiến này kia, tức những kiến giải không đúng Kinh văn Phật thuyết hoặc giả hiểu không đúng [Kinh văn] do từ tri kiến [hạn hẹp] của mình. Cho nên, trong tu học, quan trọng là phải Y giáo phụng hành [lời Kinh Phật thuyết], còn chỗ nào không rõ nghĩa [để học tập, hành trì] thì phải y giáo từ những lời của Chư Tổ Sư chỉ dạy, truyền lại. Hạng phàm phu như chúng ta chẳng thể tự 'sáng tác' ra được cái gì [hay hơn] đâu, bởi [nếu thế] không lẽ chúng ta đây giỏi hơn các Ngài chăng? Nên nhớ, sự hiểu biết [và thọ nhận] của chúng ta chỉ như giọt nước trong đại dương mà thôi. Cho nên, "càng học càng thấy mình không đủ" [kiến thức, trí tuệ] mới là đúng vậy. Cũng may rằng Pháp môn này không cần điều đó, chỉ cần nắm được cương lĩnh mà tu học là được rồi. Còn lại những kiến thức này kia, không phải là không nên đọc không nên biết gì nữa, mà chủ yếu đọc biết chúng để giúp tăng trưởng tín tâm, để thúc đẩy hâm nóng đạo tâm xuyên suốt như vậy. Chứ còn cái gì làm sút giảm tín tâm, đạo tâm thì nên từ bỏ. Chứ chẳng phải tu tập Tịnh Độ là chẳng dám đọc chẳng dám biết điều gì nữa cả. Tuy nhiên, cần phải xác định rõ ràng phân minh, rằng cái nào là đường lối Tông chỉ tông yếu [quyết định thành bại], cái nào chỉ là kiến thức bổ trợ chỉ để trợ giúp cho việc duy trì đạo tâm đạo lực, tín nguyện tâm, hành trì dụng công... Những cái [kiến thức, hiểu biết] nào giúp lợi lạc cho cái yếu tố quyết định kia [tức đường lối tông chỉ] thì nên duy trì, học tập, còn không ngược lại, nếu chúng làm xói mòn, ảnh hưởng tiêu cực thì phải 'tóp' lại ngay vậy. Bởi một đằng mang ý nghĩa trọng yếu [cho huệ mạng của ta] một đằng chỉ là phụ trợ, 'gia vị' thêm vào mà thôi.

Đoạn tiếp: Ông ta mất không lâu, Quang đến chùa Thái Bình ở Thượng Hải, một thành viên của Cư Sĩ Lâm là Châu Thạch Tăng đến thăm, hỏi tình hình lúc Hiển Ấm mất, [ông Châu] nói: “Hồ đồ! Phật chẳng niệm được, mà chú cũng chẳng niệm được”

Rõ ràng, để xem một người như thế nào, ra đi đi về đâu thì xem xem lúc cuối hình trạng họ như thế nào? Cho nên, một trong những hình tướng của người vãng sanh được Phật rước là an lành niệm câu Phật hiệu rồi ra đi [theo Phật về Tây]. Chứ còn "Phật chẳng niệm được, mà chú cũng chẳng niệm được" thì thôi xong... Thật ra, đây chỉ là một trong những hình tướng của người được vãng sanh thôi, chứ chẳng phải yếu tố quyết định. Có nhiều trường hợp nghiệp nặng miệng lưỡi lúc đó cứng đờ không niệm nổi nhưng thần thức họ vẫn sáng suốt an tường thấy Phật đến rước rồi theo Phật về Tây đấy thôi. Nói chung, niệm Phật rồi ra đi [theo Phật] chỉ là hình tướng thường thấy của người vãng sanh, còn yếu tố quyết định nó phải có trước đó kìa. Tức phải Tín Nguyện đầy đủ để cảm ứng đạo giao cùng Phật, [được như thế] Phật sẽ dùng Nguyện lực của Ngài gia hộ, che chở cho [linh tâm] người ấy không bị các nghiệp lực lúc lâm chung [cận tử nghiệp] quấy nhiễu, chướng ngại. Đây có thể nói mới là yếu tố quyết định [thành bại] vậy. Rồi tiếp đến, một khi gần tắt hơi thì Phật cùng Thánh chúng sẽ đến trước mặt, 'chờ đợi' để tiếp dẫn người ấy về. Người ấy [trong thời gian đó] có thể niệm Phật [hoặc chẳng thể niệm được cũng chẳng sao], có thể nói một lời chào giã biệt hay một lời khai thị gì đó, hoặc giả chỉ là lời thông báo [Phật đã đến]... hoặc giả chỉ là hân hoan hay an tường niệm Phật rồi theo Phật về Tây. Những hình tướng này nó khác với trường hợp 'Biên Địa Nghi Thành', ở đó do Tín tâm còn kém khuyết [nên chưa cảm ứng đạo giao cùng Nguyện lực của Phật được] nên người ta rất cần trợ duyên trợ lực lúc ấy, cùng khai thị sách tấn, sự bảo hộ gia trì [của các vị thiện thần hộ pháp, đại chúng, đồng tu, thiện tri thức] để ngăn cản bớt nghiệp lực chi phối, để được tỉnh táo mà niệm liên tục câu Phật hiệu chẳng dứt cho đến khi tắt hơi, như thế thì chắc cũng được Phật rước [theo Pháp Biên Địa Nghi Thành], cũng quyết định liễu thoát sanh tử trong đời, lên đó khi Hoặc nghiệp tiêu hết thì cũng vào được Chánh Quốc, được nghe Pháp, thân cận Thánh chúng, được đi cúng dường khắp các Chư Phật... Nói chung, dù vậy sự cảm ứng hay điềm lành này kia [từ lúc trước và khi lâm chung] kém rất xa các ca 'Tín Nguyện niệm Phật' kia, bởi một đằng do Phật lực ban cho [và phái xuống trợ duyên] còn một đằng đúng nghĩa 'tự bơi' [tức tự lực hay cùng sự trợ lực giúp sức từ ban Hộ Niệm, đại chúng].

Đến đây sẽ có người hỏi, vậy họ tu tập, niệm Phật [cả đời] rồi không lẽ đến lúc cuối không cảm ứng được Phật từ lực lúc ấy gia trì che chở cho hay sao? Dạ vâng, như đã từng nói nhiều lần rồi, rằng bên ngoài hình tướng họ đúng là như vậy, thật siêng năng tinh tấn [miệng niệm, thân lễ, trì kinh giữ giới...] nhưng 'nội tâm' bên trong họ đang nghĩ gì, đó mới là yếu tố quan trọng! Phật Pháp là Tâm Pháp, vạn Pháp [thành bại, như thế nào] là từ tâm tưởng sanh [quyết định] vậy. Cho nên trong Kinh giáo Phật thuyết, hay lời các Chư Tổ Sư chỉ dạy, rằng chúng sanh phải "thọ trì" [tức dùng tâm, hạnh để Tín Thọ Phụng Hành], phải Y giáo phụng hành mới được. Còn không, dẫu tu siêng tu tốt cỡ nào đi nữa thì đến lúc cuối cũng chỉ 'cảm ứng đạo giao' cùng các ban Hộ Niệm, quý đại chúng đồng tu, các vị thiện thần hộ pháp đến hổ trợ giúp sức gia trì mà thôi. Còn đối với Phật Nguyện lực thì phải luận xét từ Kinh giáo [xem có Y giáo phụng hành hay không], chứ chẳng phải từ những công hạnh này kia [đã tu tập được trong đời] mà luận xét được! Vì sao lại như vậy? Không lẽ Phật 'thiếu' từ bi [nên không 'cảm']? Dạ vâng, chẳng phải như vậy đâu? Đức Phật đại từ đại bi, tâm bi triệt để không ngằn mé, phổ độ khắp chúng sanh khắp Pháp giới ấy chứ! Bởi thế Phật mới phát Lời Thệ Nguyện phổ độ khắp tất cả, bình đẳng khắp tất cả và cũng không thể nào đơn giản hơn được nữa, rằng "Mười niệm ắt vãng sanh" [thậm chí vài niệm hay một niệm cũng được]. Vấn đề Phật tuyên thệ sao thì nghe và tin vậy đi, rồi [dùng tín tâm ấy] chân thật hành trì cầu sanh về. Chứ còn Phật tuyên một đằng lại đi nghĩ tưởng một nẻo, chẳng chịu tin nhận thì Phật cũng chịu thôi. Như thế là do chúng sanh hay do Phật đây?! Cho nên, với những người ấy, xét trên hình tướng [bên ngoài] thấy họ tinh tấn, dũng mãnh là vậy nhưng [bên trong] họ mắc cái lỗi rất lớn, đó là không chịu 'thọ trì', tức không chịu Y giáo phụng hành [lời Phật thuyết]. Tất cả đều có nguồn cơn cả, chẳng phải tự nhiên mà ra như thế. Cho nên Đức Phật [Thích Ca] Ngài mới nói rất rõ [rất kỹ] trong Giáo Pháp để truyền trao lại cho chúng sanh vậy [Đại Nguyện thứ 18], để chúng sanh biết đường lối mà tu tập, kẻo lầm lẫn, thiếu sót.

Đoạn tiếp theo, chỗ: Hai mươi năm qua, đúng là chuyên bận bịu vì người khác, nay đã già rồi, mong bế quan làm kế lánh phiền. Đối với công khóa sớm tối, ngoài việc theo cả chùa thực hiện công khóa ra, mỗi tối niệm thêm chú Đại Bi năm mươi lượt, hoặc hai mươi lăm lượt. Ngoài ra, hễ lúc nào rảnh thì niệm Phật, chẳng nhớ số, bởi nhớ số tốn sức.

Chư Tổ Sư Ngài viết bức thư này vào những năm tháng cuối đời, chỉ còn vài ba năm nữa là vãng sanh. Cho nên, mức độ công phu hành trì của Ngài lúc đó không phải ở hạng mức tầm thường được. Có chỗ Ngài đề cập cách dụng công của Ngài là "hễ lúc nào rảnh thì niệm Phật, chẳng nhớ số, bởi nhớ số tốn sức". Hành giả chúng ta hiện nay dụng công hàng ngày có cần ký số không? Cái này chúng ta cần nên luận bàn một chút. Rằng, vào thời của Ngài chưa có các phương tiện hổ trợ như máy bấm số, ký số để ghi nhớ số lượng này kia.., song việc [nếu muốn] ký số, nhớ số cho công khóa mỗi ngày cũng không phải không có phương tiện. Đó chính là dùng xâu chuỗi, cái này đã có từ thời xa xưa đến giờ. Việc dùng xâu chuỗi, lần tràng hạt để ký số, ghi nhớ số cũng được thôi, chẳng khác gì cách dùng máy bấm số hiện tại nhiều người hay dùng. Còn xét ở mức độ nhiếp tâm thì có lẽ việc lần chuỗi còn dễ nhiếp tâm hơn cách bấm số. Còn về việc ghi nhớ số thì rõ ràng với thời đại khoa học kỹ thuật tiến bộ, thì máy bấm số điện tử ngày nay tối ưu hơn cách lần hạt nhiều rồi [lần hạt thì cần phải ghi nhớ số lượng chuỗi hay phải có sổ sách ghi chép lại]. Cho nên Ngài mới nói [nếu lần chuỗi] để ghi nhớ số thì tốn sức. Thật sự ra, với các cụ già thì cần lần chuỗi hay bấm số để ký số lượng hay để dễ nhiếp tâm hơn, chứ còn đối với những hành giả còn trẻ khỏe hay trung niên thì tốt nhất nên dụng công theo thời khóa ổn định hàng ngày. Giờ nào đi đạo tràng cộng tu cùng đại chúng [nếu có] thì đi, còn lại thời khóa sớm tối ở nhà nên giữ thời lượng nhất định thì tốt hơn, nên lấy thời lượng để làm hạn mức cho mỗi thời khóa thì hay hơn [số lượng]. Ví dụ hàng ngày ở nhà dụng công hai thời [hay có thể thì ba thời, bốn thời...], mỗi thời 2-3 tiếng, chẳng hạn vậy. Mức độ công phu thì tùy hoàn cảnh nhân duyên mỗi ngưởi, chẳng thể 'bắt' người này phải giống y như người kia được. Chỉ khi đi đến đạo tràng cộng tu thì mới giống nhau thôi. Rồi còn trong thời khóa công phu thì sao? Ở đây là chỉ luận bàn lúc công phu Địa Chung thôi [còn những lúc lễ lạy, bái sám, nghi thức này kia không bàn ở đây]. Rõ ràng rằng với những ai đã quen cách thức như thế nào, cảm thấy cách nào hiệu quả thì cứ tiếp tục phát huy. Tuy nhiên, với các cụ già yếu, khi sức khỏe, tinh thần không còn tráng kiện nữa thì có thể dựa vào những phương tiện hỗ trợ như xâu chuỗi, máy bấm số, máy niệm Phật... Nhưng với hành giả còn trẻ khỏe thì lúc công phu [địa chung] cần cố gắng nhiếp tâm vào câu Phật hiệu cho sâu một chút. Miệng niệm, tai lắng nghe câu Phật hiệu cho rành mạch, rõ ràng, chậm rãi, từng câu từng tiếng, đừng nên chạy theo số lượng cho nhiều [mà niệm cho nhanh, không để ý việc nhiếp tâm]. Được như thế ấy chính là như các Ngài hay nói "nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối". Rõ ràng với cách dụng công như thế thì việc sử dụng các phương tiện này kia [trong lúc hành trì] là không cần thiết, nếu không muốn nói là ảnh hưởng ít nhiều đến việc nhiếp tâm [mà cụ thể ở đây là 'miệng niệm, tai nghe']. Bởi rõ ràng, một khi tay dùng để lần chuỗi hay ký số thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến việc 'lắng nghe' câu Phật hiệu [do chính mình niệm ra].

Trên đây là do gặp duyên nên chỉ luận bàn một cách khái quát vậy thôi. Còn cách thức, mức độ dụng công hành trì như thế nào thì tùy ở mỗi căn cơ, hoàn cảnh nhân duyên mỗi người vậy.

Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc kỹ, học tập.

 

Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng

Thư trả lời cư sĩ Du Hữu Duy (năm Dân Quốc 26 - 1937)

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.