Chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh
Vợ chồng lệnh hữu Trần Đôn Phục tận lực hành hiếu - hữu, lại có thể dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tu ròng Tịnh nghiệp, đúng là những kẻ hiếm thấy trong đời nay. Nay họ muốn quy y và thọ Ngũ Giới, ắt phải hiểu rõ tông chỉ pháp môn Tịnh Độ, ngõ hầu có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này. Phải biết: Pháp môn Tịnh Độ lấy tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương làm tông chỉ. Người đời thường nghĩ điều này là chuyện tầm thường, không có chi kỳ lạ, bèn coi pháp tham cứu trong nhà Thiền mới là thù thắng, chú trọng vào khai ngộ, chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh. Đặt tên hoa mỹ là Thiền Tịnh Song Tu, nhưng xét tới thực chất thì hoàn toàn là không Thiền, không Tịnh Độ!
Do không cảm sẽ chẳng thể có ứng
Vì sao nói vậy? Do chẳng đạt đến đại triệt đại ngộ thì chẳng gọi là “có Thiền”. Người tham Thiền bây giờ ai thật sự đạt đến địa vị đại triệt đại ngộ? Do chú trọng vào tham cứu nên đem sự trang nghiêm của y báo, chánh báo Tây Phương quy hết vào tự tâm, chẳng có mảy may ý niệm tín nguyện cầu sanh. Tuy gọi là niệm Phật nhưng thực chất là trái nghịch đạo niệm Phật! Hoặc nói ra vẻ cao xa là “niệm Thật Tướng Phật”. Tuy Thật Tướng là cái gốc của các pháp, nhưng phàm phu nghiệp chướng sâu nặng làm sao đạt đến được? Ra vẻ “quy Tông” (quy kết mọi thứ về Thiền) nhưng Thiền cũng không nương tựa được, mà Tịnh cũng không nương tựa được luôn! Cậy vào tự lực, dẫu đạt đến địa vị đại triệt đại ngộ, nhưng vì chưa đoạn Hoặc nghiệp sẽ chẳng thể liễu sanh tử được! Chưa ngộ đến mức đại triệt [đại ngộ] thì khỏi cần phải bàn chi nữa! Cậy vào Phật lực, chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì mới được. Do một mực đem Tây Phương Tịnh Độ, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, mỗi thứ đều quy hết vào tự tâm, nhưng tự tâm chỉ là chấp xuông cái danh, chưa chứng được cái thật, [cho nên] đức Phật ở phương Tây do không cảm sẽ chẳng thể có ứng, đức Phật nơi tự tâm do còn đang ở trong nhân nên không có oai đức!
Biến khéo thành vụng
Những kẻ ham cao chuộng xa trong cõi đời thường đều hay trở thành biến khéo thành vụng, cầu thăng hóa đọa, nhưng kẻ tri thức muốn được người khác ca ngợi mình là viên dung, vẫn trọn chẳng chịu nói như vậy, đến nỗi đức Như Lai do tâm đại từ bi muốn làm cho hết thảy chúng sanh liễu sanh tử ngay trong đời này, nhưng họ vẫn cứ y như cũ chẳng thể liễu được! Đời này đã chẳng thể liễu, tương lai may ra có thể liễu, nhưng vẫn phải luân hồi trong lục đạo còn nhiều hơn số lượng từ trần sa kiếp này sang trần sa kiếp khác. Nếu thật sự hiểu được sự lợi - hại này, lại lắng lòng xem các kinh sách Tịnh Độ, mới biết một pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương này không gì lớn lao ra ngoài được, mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh không vị nào chẳng nhờ vào pháp này để thành tựu lúc khởi đầu, thành tựu khi kết thúc!
“Dạy con là cái gốc để bình trị thiên hạ"
Nay đặt pháp danh cho Đôn Phục là Huệ Phục, nghĩa là dùng pháp môn Tịnh Độ được nói từ trí huệ của Phật để tự hành, dạy người, ai nấy đều khôi phục được nguồn tâm sẵn có. Vợ ông ta là Trịnh Hàm Chương, có pháp danh là Huệ Chương, nghĩa là nương theo pháp môn Tịnh Độ do đức Phật đã nói để tự hành, dạy người, lại còn dạy dỗ con cái và hết thảy các phụ nữ ngõ hầu đạo của hai bà Phi, ba bà Thái, Vy Đề Hy đều được sáng tỏ rực rỡ trong đời hiện tại. Vì vậy, có tên là Huệ Chương. Tôi thường nói: “Quyền trị quốc, bình thiên hạ, hàng nữ nhân nắm quá nửa”. Ấy là vì mẹ hiền thì con cái đều hiền, trong thai bẩm thụ khí chất của mẹ, lúc nhỏ thì nhìn vào hành vi của mẹ, nghe lời mẹ, đã được huân tập trước khi học hành, đến khi đi học sẽ tận lực ứng dụng mỗi điều ấy vào cư xử, cho nên là hiền nhân, thiện nhân. Lại nói: “Dạy con là cái gốc để bình trị thiên hạ, nhưng dạy con gái càng quan trọng hơn!” Do không có hiền nữ sẽ không có hiền thê, hiền mẫu; do đó cũng chẳng có hiền nhân!
Tánh Giới, Giá Giới
Nay tôi không chỉ dạy pháp môn Tịnh Độ mà lại bàn tràn lan sang điều này, là vì mong ai nấy đều biết chăm chú nơi bổn phận. Cái gốc này đã được lập thì hết thảy đạo lý thế gian, xuất thế gian đều được khôi phục, hiển hiện rõ ràng. Nay tôi gởi cho họ hai bao kinh sách Tịnh Độ, hãy lắng lòng đọc. Sự lợi ích do tu pháp này cố nhiên Quang chẳng cần phải nói nhiều. Bất luận đã thọ Ngũ Giới hay chưa, đều phải nghiêm ngặt gìn giữ, do bốn điều đầu tức Sát, Đạo, Dâm, Vọng gọi là Tánh Giới, tức là người chẳng nghe đến tên của bốn giới này, hễ phạm thì vẫn bị tội lỗi, nhưng thọ giới rồi còn phạm thì thành ra [mắc tội] hai tầng. Ngoài cái tội vốn đã phạm ra, còn thêm tội lỗi phạm giới. Vì thế, nói: “Hết thảy mọi người đều nên gìn giữ nghiêm ngặt”. Uống rượu gọi là Giá Giới (giới có tác dụng ngăn che), chưa thọ giới mà uống thì không mắc tội, thọ rồi vẫn uống chỉ bị tội phạm giới. Mong hãy sáng suốt suy xét và đưa cho vợ chồng họ đọc thư này.
Nam Mô A Di Đà Phật
Đoạn đầu: Phải biết: Pháp môn Tịnh Độ lấy tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương làm tông chỉ. Người đời thường nghĩ điều này là chuyện tầm thường, không có chi kỳ lạ, bèn coi pháp tham cứu trong nhà Thiền mới là thù thắng, chú trọng vào khai ngộ, chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh. Đặt tên hoa mỹ là Thiền Tịnh Song Tu...
Như chúng ta đã biết, Tông chỉ Pháp môn là Tín - Nguyện - Hạnh, tức Tín - Nguyện - Niệm Phật [cầu sanh Tây Phương], hay như các Ngài nói rõ hơn nữa đó là "Thật vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng Tín Nguyện sâu trì danh hiệu Phật". Đó chính là Tông chỉ tông yếu của Pháp môn vậy. Tông yếu này được đúc rút ra từ Bổn Nguyện tiếp dẫn của Phật [Đại Nguyện thứ 18], hoàn toàn nằm trong Đại Nguyện này, không cần bất cứ Đại Nguyện nào khác nữa [để làm Tông chỉ tu học của Pháp môn]. Thật vậy, Bổn Nguyện tiếp dẫn này đã gồm thâu đầy đủ trọn vẹn tất cả các dạng căn tánh chúng sanh Thượng - Trung - Hạ [cụ thể hơn là từ hạng bét đến Đẳng Giác Bồ Tát], rồi 'đầu ra' thành tựu là Ba bậc Chín phẩm đều đầy đủ trọn vẹn trong đó [từ hạng bét Hạ phẩm hạ sanh trở lên]. Vậy còn Biên Địa thì sao? Ai được về đó? Có gồm thâu trong Đại Nguyện này không? Thật sự thì trong Kinh Phật thuyết Biên Địa này nằm ở một 'hạng mục' riêng [ Phẩm 40. Biên Địa, Nghi Thành], tức do tâm còn nghi hoặc, chưa đoạn trừ được nên phải sanh vào 'vùng ven' [Biên Địa] này một thời gian, "khi đã hết nghiệp [hoặc] rồi mới được ra khỏi". Cho nên, chúng ta thấy, hành giả dẫu công phu cao trỗi, công đức lớn lao vượt trội thế nào nhưng một khi vẫn còn 'dính' chút nghi hoặc chưa đoạn thì cũng đành phải vào Biên Địa một thời gian, sau khi hoặc nghiệp hết sạch [không còn tâm nghi nữa] thì sẽ được vào lại Chánh Quốc, vào đúng chỗ phẩm vị vốn có của mình [chứ không phải trở lại từ đầu từ bậc bét hạ phẩm hạ sanh].
Đoạn tiếp, chỗ: Cậy vào Phật lực, chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì mới được. Do một mực đem Tây Phương Tịnh Độ, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, mỗi thứ đều quy hết vào tự tâm, nhưng tự tâm chỉ là chấp xuông cái danh, chưa chứng được cái thật, [cho nên] đức Phật ở phương Tây do không cảm sẽ chẳng thể có ứng, đức Phật nơi tự tâm do còn đang ở trong nhân nên không có oai đức!
Với hành giả Tịnh Độ, phải đầy đủ lòng tin chân thành nguyện thiết tha [tức Tín Nguyện đầy đủ, chân thật] thì mới có cảm ứng đạo giao cùng Phật, Ngài mới ứng hiện Phật lực để "từ bi gia hựu khiến linh tâm bất loạn", tức vào giai đoạn cuối của cuộc đời, sau đó bước tiếp theo mới là Phật đến lai nghinh tiếp dẫn về Cực Lạc. Đó chính là chúng sanh được cậy vào Phật từ lực, [đới nghiệp] vãng sanh. Cho nên hành giả Tịnh Độ phải hiểu cho đúng và đầy đủ yếu tố Tha Lực ở đây là gì. Đa phần chỉ cho là Phật 'chờ' đến cuối cùng xem có niệm được không rồi mới đến tiếp dẫn, xem đó là yếu tố Tha Lực của Pháp môn. Rồi ngoài ra đều phải hoàn toàn tự lực [cậy vào đại chúng đồng tu, thiện tri thức, thiện thần... đến trợ duyên, hộ niệm cho], để thực hiện cho được cái 'công đoạn' là 'lâm chung phải tỉnh táo sáng suốt niệm được câu Phật hiệu'. Hiểu như thế thì cái 'công đoạn' đầu tiên [tối quan trọng] của yếu tố Tha lực [Phật Nguyện lực] là "từ bi gia hựu khiến linh tâm bất loạn" như trong Kinh nói hoàn toàn bị 'phế bỏ' mất. Mà đây mới là yếu tố cốt lõi, quan trọng nhất. Để được vãng sanh hay không [vào thẳng Chánh quốc] không thể thiếu yếu tố này, tức Phật lực gia hựu, che chở cho trong giai đoạn cuối lâm chung, khiến cho thần trí minh mẫn, bất loạn, tỉnh táo niệm Phật rồi theo Phật về Tây, vào thẳng Chánh quốc [lúc này Phật đã xuất hiện trước khi tắt hơi], tức vãng sanh khi hãy 'còn sống'. Như vậy mới gọi là Pháp môn "Một đời thành Phật". Một đời ở đây là ngay đời hiện tại này, 'vẫn còn sống' rồi đến cuối đời Phật rước về Cực Lạc tiếp tục tu tập đến ngày viên thành Phật quả. Tức họ chưa từng trải qua 'cái chết' lần nào nữa cả, chỉ là xả bỏ báo thân này rồi theo Phật trở về. Họ cũng chẳng có trải qua 'một niệm cuối cùng' hay gì cả, tức khi thần thức theo Phật đi rồi thì xác thân họ không còn thở nữa [tắt hơi], lúc đó đúng là chỉ còn lại 'cái xác không hồn' vậy.
Cho nên câu nói: 'Một niệm cuối cùng quyết định cảnh giới đi về đâu', đây là dành cho các Pháp môn Tự lực thông thường, còn một khi áp dụng vào Tịnh Độ tông thì thành ra 'hỏng bét' hết vậy. Vì sao? Như trên đã nói, họ khi còn sống [tức còn thở] thì Phật đã xuất hiện để lai nghinh tiếp dẫn về, rồi khi thần thức đi theo Phật trở về, tức đã lìa khỏi xác thì lúc đó [cái xác] mới không còn thở nữa, tắt hơi. Vậy thì đâu có cái khái niệm nào gọi là 'niệm cuối cùng' ở đây nữa. Bởi thật sự họ còn sống, chưa chết mà đã đi theo Phật. Nói chung là họ chưa bao giờ chết cả [mãi cho đến khi thành Phật luôn]. Cho nên cái khái niệm 'một niệm cuối cùng' là dành cho cái chết [mới có niệm cuối này]. Hơn nữa, một khi Phật cùng Thánh chúng xuất hiện thì tùy nhân duyên mỗi người, thời gian có thể lâu mau, có người đi theo ngay, có người chào cáo biệt, có người nói một câu đọc một lời kệ khuyến tu rồi ra đi, lại có người được Phật báo trước ngày giờ từ trước... Nói chung cảm ứng, điềm lành, ấn chứng rất thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả đó đều là nhờ cảm ứng đạo giao cùng Phật nên lúc cuối mới được như vậy. Cho nên yếu tố Tha lực ở 'công đoạn' đầu này mới là quan trọng, quyết định vậy. Còn sau đó Phật [cùng Thánh chúng] đến rồi tiếp dẫn về chỉ là điều hiển nhiên tiếp theo mà thôi. Mà để có được điều này [cảm ứng đạo giao] thì cần phải có Tín Nguyện đầy đủ chân thật [trong Kinh giáo gọi là "chí tâm tin ưa, bất sanh nghi hoặc"]. Bởi vậy, "được vãng sanh hay không là do có Tín Nguyện hay không", như các Ngài nói vậy.
Còn về vấn đề Pháp Biên Địa, đó là một 'phạm trù' hoàn toàn khác. Chúng ta có thể nói ngắn gọn là, do hành giả Tín Nguyện tâm chưa được tròn đầy [đầy đủ, chân thật] nên chưa thể cảm được với Bổn Nguyện tiếp dẫn [Đại Nguyện 18] nên Phật Nguyện lực không ứng hiện ở đây được [trong giai đoạn đầu] để "từ bi che chở..."], cho nên hành giả phải 'tự lực cánh sinh' thôi không cách nào khác nữa, tức phải tự cố gắng giữ chánh niệm, cho câu Phật hiệu "liên tục nhớ nghĩ không thôi kết thành thiện nguyện cũng được vãng sanh" như Kinh nói. Tức đúng là 'một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng', đến lúc tắt hơi luôn, khi đó do thực hành đúng cái Pháp Biên Địa kia nên lúc đó Hóa Phật mới đến lai nghinh về Biên Đia thôi. Tức là khác với trường hợp trên, ở đây Phật đến rước sau khi tắt hơi, nên những ca vãng sanh này thường ít có điềm lành cảm ứng gì lắm, chỉ có thấy lâm chung niệm được câu Phật hiệu đến cuối cùng, rồi sau đó thoại tướng đẹp, mềm mại... Rõ ràng với trường hợp này thì có 'cái chết' thật sự, tức có trút hơi thở cuối cùng. Nhưng nói 'một niệm cuối cùng quyết định cảnh giới...' như trên cũng chưa hẳn hoàn toàn chính xác, mà là phải như Kinh nói "liên tục nhớ nghĩ không thôi...", tức là phải liên tục niệm đến lúc cuối cùng [ chứ chẳng phải chỉ 'một niệm cuối cùng'], bởi các Ngài mới nói đây là Pháp môn đặc biệt, chẳng thể dùng những nghĩa lý của Pháp thông thường mà luận bàn được [như thế thì sẽ thành tà kiến ngay]. Nói chung là những ca vãng sanh sau khi mất [hương linh, thân trung ấm...] thường là vãng sanh vào Biên Địa, song cũng không phải là không có cơ hội vào Chánh quốc [nếu thần thức phát khởi được Tín tâm chân thật].
Trên đây chỉ là một vài luận bàn nho nhỏ, gọi là 'gặp đâu nói đó' vậy, tùy duyên, chứ còn với Pháp môn này mà ngồi nói tường tận ra thì thôi, biết bao nhiêu cho đủ.
Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc và học tập.
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng
Thư trả lời cư sĩ Trương Thuần Nhất
Đại Sư Ấn Quang