Thư trả lời Đông Xá Tây Khách
Dùng tự lực để liễu sanh tử khó khăn, nương Phật lực để liễu sanh tử dễ dàng
Lăng Nghiêm có gì mà chẳng nên nghiên cứu, nhưng phải lấy Tịnh Độ làm chủ thì hết thảy kinh đều nêu tỏ được lợi ích của Tịnh Độ. Phần mở đầu của kinh Lăng Nghiêm gạn hỏi cái tâm khó khăn như thế ấy, cho nên biết chúng sanh đời Mạt vẫn muốn dùng Thiền để giải quyết đại sự sẽ tự lầm, lầm người lớn lắm! Huống chi hai mươi lăm pháp Viên Thông, xếp [pháp Viên Thông của] ngài Thế Chí trước [pháp Viên Thông của] đức Quán Âm, [ngụ ý] đề cao, lấy Tịnh Độ làm pháp chánh yếu lớn lao lắm! Trong phần giảng rõ về cảnh Ngũ Ấm Ma, [kinh dạy] người phá được hai ấm Sắc và Thọ vẫn còn có chuyện bị ma dựa. Đủ thấy dùng tự lực để liễu sanh tử khó khăn, nương Phật lực để liễu sanh tử dễ dàng. Nghiên cứu được như vậy thì lợi ích lớn lao.
Do chính mình chưa đủ chánh nhãn
Phàm khi nghiên cứu, ắt phải lắng lòng, bặt suy nghĩ, ngưng thần đọc kỹ như người vào đảo báu lớn, ắt sẽ có sở đắc. Nếu giống như đi đường vội vã chỉ mong cho lẹ, hận chẳng thể vừa coi là xong, thì chẳng những không hiểu được nghĩa kinh, mà đâm ra lâu ngày còn mắc bệnh, thậm chí tổn khí, thổ huyết v.v… Kẻ khéo được lợi ích, không gì chẳng có ích. Kẻ cam chịu tổn hại, không gì chẳng tổn hại. Kinh Lăng Nghiêm quả thật là kinh điển mầu nhiệm để hoằng dương Tịnh tông, nhưng kẻ chưa biết pháp môn Tịnh Độ thường do Lăng Nghiêm mà ngược ngạo khinh miệt pháp môn Tịnh Độ! Đấy gọi là “người nhân thấy là nhân, kẻ trí thấy là trí”, do chính mình chưa đủ chánh nhãn, cứ dùng ý kiến của chính mình để hiểu kinh mà ra!
Thư trả lời cư sĩ Diệp Chỉ Phân
(Thư thứ nhất)
Hãy nên đọc kỹ thiên Lập Mạng của Viên Liễu Phàm
Con người sống trong thế gian thọ - yểu, cùng quẫn - hanh thông, đều do nhân đời trước gây nên. Nhưng kẻ đại thiện hay đại ác cũng chuyển họa thành phước, chuyển phước thành họa, đủ mọi loại bất đồng! Vì thế, thánh hiền đều chú ý nơi tu trì, Phật pháp cũng chú trọng nơi sám hối! Hễ sám hối “tánh khiên” (lỗi lầm nơi tâm tánh), tu sửa đức mình, thì hết thảy sự thọ dụng đều chẳng phải do túc nghiệp cảm thành như cũ nữa. Hãy nên đọc kỹ thiên Lập Mạng của Viên Liễu Phàm [trong sách Liễu Phàm Tứ Huấn] sẽ biết rõ! Há phải chỉ có họa - phước do chính mình chuyển biến, mà ngay cả thánh hay phàm cũng do chính mình chuyển biến. Hiểu rõ điều này, sẽ dốc sức nơi một pháp “làm thánh, liễu sanh tử”. Nếu không, dẫu cho đại hiếu tôn kính cha mẹ, là kẻ cực hiếu dưỡng trong thế gian, phú quý, học vấn trùm lấp cõi đời, vẫn chỉ là huyễn tướng trống rỗng phù hoa biến hiện trong cơn huyễn mộng! Sau khi đã hiện xong, nào còn có dấu tích thật sự để được nữa ư? Như vậy thì phàm là công danh, con cái, học vấn, danh dự, rốt cuộc trọn chẳng liên can gì đến chuyện sanh tử cả! (...)
Vì chẳng dốc sức nơi giáo dục trong gia đình và nhân quả báo ứng
Lệnh lang tuy thông minh, ôm tấm lòng lo toan cho nước, cho dân, tiếc là hoàn toàn chưa nghe đạo, những gì anh ta bôn tẩu hô hào chẳng qua là thuận theo trào lưu quấy rối mù quáng đến nỗi tử vong. Nếu anh ta biết loạn lạc sở dĩ dấy lên là vì chẳng dốc sức nơi giáo dục trong gia đình và nhân quả báo ứng, sẽ biến sự nhọc nhằn, siêng năng tẩy chay hàng hóa của Nhật Bản thành [nhọc nhằn siêng năng] áp dụng đạo căn bản để mưu toan bình trị thì người như vậy sẽ trở thành học trò của thánh hiền, chẳng uổng chỉ mang xuông tâm chí hào hiệp mà thôi! Thông minh đâm ra bị thông minh gây lầm lẫn, đáng thương như thế đó!
Các hạ coi Quang là thiện tri thức, tuy Quang chẳng đáng là thiện tri thức, nhưng chẳng thể không dùng lời lẽ ý tứ của một thiện tri thức để thưa trình lên các hạ hòng chẳng thiếu sót [tình quen biết]. Nếu các hạ vẫn chẳng nguôi lòng cầu con, xin trước hết hãy tiết dục để thân thể của chính mình được khỏe mạnh, hòng làm cái gốc sanh thành con cái, tích âm đức nhằm xoay chuyển lòng trời, trì danh hiệu Phật để tạo lợi ích cho khắp cả ta lẫn người. Lại khuyên lệnh phu nhân cũng nên giữ tấm lòng như thế, xử sự như thế, lại còn phải lễ bái, cúng dường, xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Nếu tâm kiền thành, ắt sẽ sanh được đứa con làm rạng rỡ thanh danh gia đình.
Phẩm Phổ Môn có dạy: “Nếu có nữ nhân muốn cầu con trai, lễ bái cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ. Nếu muốn cầu con gái, liền sanh con gái đoan chánh có phước tướng, đã gieo trồng gốc đức từ đời trước, được mọi người yêu kính”. Các hạ muốn cầu có con nối dõi, hãy nên theo phương pháp Quang vừa mới nói để cầu thì không khi nào chẳng cầu được! Nếu không, dẫu có sanh được con, chắc là khó thể bảo đảm nó chẳng bị hãm trong những trào lưu [cực đoan, quá khích], đến nỗi đi theo con đường đại nghịch vậy! Viết ra những điều này để xin ông hãy sáng suốt suy xét. Trong tháng Chín, chắc chắn Quang sẽ diệt tung tích, chẳng muốn đem ảnh chụp làm gai mắt khắp mọi người, cho nên chẳng gởi. Nếu y theo lời Quang nói chính là thấy được lòng Quang, chứ tướng xấu sờ sờ há đáng nhắc đến ư?
(Thư thứ hai)
Cái gốc để sanh con là ở chỗ bồi dưỡng thân thể và âm đức!
Lá thư trước đã gởi đi hôm Mười Sáu. Đọc thư ông, khôn ngăn bật cười! Chẳng thể tiết dục, gấp muốn có con! Chẳng biết cái gốc để sanh con là ở chỗ bồi dưỡng thân thể và âm đức! Chẳng tiết dục thì tinh loãng chẳng thể đậu thai. Dẫu có đậu thai, sanh được con, ắt nó cũng sẽ bấy bớt, khó khôn lớn được! Nếu muốn sanh được đứa con tốt lành có thể kế thừa thanh danh của gia đình thì phải đoạn dục một năm, hoặc nửa năm, ngõ hầu thân thể mạnh mẽ, tinh thần sung túc, đợi cho vợ sạch kinh nguyệt rồi mới chung đụng một phen, liền có thể đậu thai. Từ đấy vĩnh viễn chấm dứt ân ái thì đứa con sanh ra nhất định mũm mĩm, đầy đặn, tánh tình lương thiện, chắc chắn không có những bệnh lên sởi, trái rạ v.v… và chẳng lo nó không lâu sau sẽ chết.
Hãy nên phát tâm đại Bồ Đề tự lợi, lợi tha...
Với ác nghiệp đời trước, hãy chí tâm sám hối, kiền thành tụng kinh, sẽ tự có thể tiêu diệt. Há nên tin tưởng Thọ Sanh Kinh, sanh vào năm nào đó sẽ phải trả nợ chừng đó tiền thọ sanh. Đấy là kinh do Tăng sĩ chuyên làm kinh sám bịa ra, sao ông lại tin đó là thật? Cần biết rằng: Từ vô lượng kiếp đến nay, do tham - sân - si tạo giết - trộm - dâm, đã kết oán nghiệp vô lượng vô biên; hãy nên phát tâm đại Bồ Đề tự lợi, lợi tha, chí thành niệm Phật, tụng kinh để mong tiêu diệt. Cũng như dùng công đức ấy để siêu độ cha mẹ của chính mình trong đời này, tổ tông, họ hàng nhiều đời, khiến họ đều được tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn, thoát khỏi đời ác Ngũ Trược này, sanh sang cõi tịnh bảy báu kia, ngõ hầu chẳng thẹn làm con, làm cháu của người khác, chẳng thẹn làm đệ tử Phật.
Chỉ cần chí thành, cung kính thì công đức lớn lao
Ông hỏi kinh nào tốt nhất, chẳng biết hết thảy kinh Đại Thừa đều tốt. Ông có thể thọ trì từng kinh một hay chăng? Nếu đã chẳng thể trì khắp, hãy cứ trì mãi Kim Cang, Tâm Kinh, Di Đà Kinh, Đại Bi Chú, không có loại nào chẳng tốt cả! Chỉ cần chí thành, cung kính thì công đức lớn lao. Nếu không, [do trì tụng] chắc sẽ có công đức nhưng có thể bị tội lỗi do tâm không kiền thành chắc sẽ đến nỗi trở thành khinh nhờn. Lại cần phải lấy việc niệm Nam Mô A Di Đà Phật làm công khóa để hằng ngày thường tu không gián đoạn, ấy chính là đem vạn đức hồng danh của đức Như Lai huân tập cái tâm nghiệp thức của chính mình, lâu ngày chầy tháng, tâm sẽ tự có thể hợp với Phật và tâm hợp với đạo.

Ảnh: Tượng Phật A Di Đà tại chùa Tòng Lâm Lô Sơn, Vĩnh Phương, Nha Trang. Chiều cao tổng thể 44m, riêng phần thân tượng cao 37m, tượng trưng cho 37 phẩm trợ đạo.
Thư đầu, đoạn đầu: Phần mở đầu của kinh Lăng Nghiêm gạn hỏi cái tâm khó khăn như thế ấy, cho nên biết chúng sanh đời Mạt vẫn muốn dùng Thiền để giải quyết đại sự sẽ tự lầm, lầm người lớn lắm! Huống chi hai mươi lăm pháp Viên Thông, xếp [pháp Viên Thông của] ngài Thế Chí trước [pháp Viên Thông của] đức Quán Âm, [ngụ ý] đề cao, lấy Tịnh Độ làm pháp chánh yếu lớn lao lắm!
Nói chung chúng sanh đời nào cũng vậy, tu Tịnh Độ vẫn là thù thắng nhất, dễ liễu sanh thoát tử nhất vậy. Tuy nhiên sự khác biệt giữa các thời đó là, ở các thời trước thì tu các Pháp tự lực khác sẽ dễ thành tựu hơn [thời này], nên hành giả có thể chọn lấy mà tu, vẫn có thể chứng đắc, thành tựu [liễu thoát sanh tử]. Chứ thời trước mà tu Tịnh Độ thì lại càng dễ thành tựu hơn, công phu sâu dày hơn, phẩm vị cao trội hơn hẳn so với thời nay. Còn xét riêng thời đại hiện nay và về sau thì chỉ còn có Tịnh Độ là có thể chân thật thành tựu ngay trong hiện đời này, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, còn tu các Pháp khác thì chắc chỉ có các vị tái thế độ sanh mới chứng đắc trong đời để làm biểu pháp này kia [theo hạnh nguyện độ sanh] mà thôi, còn như phàm phu chúng ta thì chắc nằm mơ cũng chẳng có [huống hồ thực tiễn]. Bởi vậy chúng ta thấy Đức Phật Ngài mới huyền ký lại rằng chúng sanh đời Mạt chỉ có tu Pháp môn Niệm Phật là thành tựu [chân thật, trong đời] là vậy.
Câu "Huống chi hai mươi lăm pháp Viên Thông, xếp [pháp Viên Thông của] ngài Thế Chí trước [pháp Viên Thông của] đức Quán Âm, [ngụ ý] đề cao, lấy Tịnh Độ làm pháp chánh yếu lớn lao lắm!", Pháp Viên Thông của ngài Đại Thế Chí là sao? Kinh Lăng Nghiêm nói "Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam ma địa bậc nhất". Còn Pháp Viên Thông của ngài Quán Thế Âm, Kinh nói là "Phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo" [xoay ngược cái nghe để nghe tự tánh, tánh trở thành vô thượng đạo], đây là Pháp tự lực. Cho nên mới nói là "xếp [pháp Viên Thông của] ngài Thế Chí trước [pháp Viên Thông của] đức Quán Âm, [ngụ ý] đề cao, lấy Tịnh Độ làm pháp chánh yếu lớn lao lắm!". Chỗ này chúng ta nói thêm về Pháp Viên Thông của ngài Đại Thế Chí, rằng thế nào là "Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối"? Tức là chúng ta dùng phương pháp vừa niệm vừa nghe, trong lúc niệm Phật chúng ta chỉ cần lắng tai nghe tiếng niệm của chính mình [dù niệm ra tiếng hay niệm thầm], thế là đủ để gọi là "nhiếp trọn sáu căn", bởi vì chỉ cần tập trung nhiếp được cái nhỉ căn là các căn kia cũng nhiếp theo, đầy đủ hết cả. Cho nên Pháp "nhiếp trọn sáu căn" thật ra đơn giản chỉ có vậy. Dĩ nhiên cái gì cũng có quá trình, từ từ từng bước, huân tập lâu dần sẽ thành thói quen, cứ đến phần ngồi công phu địa chung là phải 'nghe', không 'nghe' không được. Còn những ai chưa quen thì cứ tập nghe dần dần, lâu ngày chầy tháng sẽ thành thói quen tốt, chứ nếu chưa quen hay mới tập mà cứ cố gắng nghe suốt cũng không tốt, cần phải tự nhiên, mệt phải nghỉ, xả ra bớt, niệm theo cách tự nhiên bình thường, đừng quá cố gắng sẽ gây ra những phản ứng tiêu cực rồi đâm ra sợ rồi bỏ luôn. Nói chung tùy hoàn cảnh nhân duyên thôi, việc hành trì công phu chẳng phải ai cũng giống ai được, miễn sao cái cần kíp là đời này phải thành tựu vãng sanh, liễu thoát sanh tử là được.
Đoạn tiếp: Trong phần giảng rõ về cảnh Ngũ Ấm Ma, [kinh dạy] người phá được hai ấm Sắc và Thọ vẫn còn có chuyện bị ma dựa. Đủ thấy dùng tự lực để liễu sanh tử khó khăn, nương Phật lực để liễu sanh tử dễ dàng.
Nói chung hành giả tu Tịnh Độ thì phải nương Phật lực mới về được Cực Lạc, liễu thoát sanh tử, chứ tự mình không thể về đó được, còn tu các Pháp tự lực thì phải tự lực tu chứng, để trước hết là liễu thoát sanh tử, chứng nhập bậc Thánh [A La Hán]. Nhưng trong Tịnh Độ lại cũng có nhiều đường lối khác nhau, do xuất phát từ các Đại Nguyện [tiếp dẫn] khác nhau của Phật, như nếu nương vào Đại Nguyện 19 thì phải công phu đạt Nhất tâm bất loạn mới thành tựu ["nhất tâm niệm ngã, trú dạ bất đoạn..."], nếu nương Đại Nguyện 18 thì phải Tín Nguyện đầy đủ, niệm Phật mới thành tựu ["chí tâm tin ưa"], nếu nương vào Pháp Biên Địa thì phải "liên tục nhớ nghĩ không thôi kết thành thiện nguyện cũng được vãng sanh", tức phải "liên tục" từ lúc bình thời cho đến lúc tắt hơn luôn, đặc biệt nhất là giai đoạn cuối lúc lâm chung phải thành tựu cho được cái gọi là "liên tục' [cái tâm] niệm này, không được ngơi nghĩ cho đến cái niệm cuối cùng luôn, không được gián đoạn, không được tạp tâm tạp niệm, lúc cuối phải vậy mới được, tức phải đạt cái gọi là 'chí thành tâm' mà niệm mà cầu sanh về, như vậy mới được gọi là "liên tục nhớ nghĩ không thôi" [lúc cuối]. Cho nên, với riêng Pháp Biên Địa thì lúc cuối hành giả không thể tự tại vãng sanh được đâu, tức là chẳng thể dạng 'cười nói' hay nói lời khuyến tấn, cáo biệt này kia, hay nói kiểu như 'Phật đã đến rồi, ta đi đây..." kiểu dạng như vậy rồi ra đi theo Phật, lại càng chẳng thể được Phât báo trước ngày giờ vãng sanh nữa.
Cho nên chúng ta thấy, tất cả các ca vãng sanh mà có những biểu hiện, điềm lành kiểu như vậy thì đều là từ Pháp Tín Nguyện niệm Phật [tức từ Đại Nguyện 18] mà ra cả. Tức họ đã đạt "chí tâm tin ưa" trong quá trình tu tập theo những cách thức khác nhau, có thể là đạt "chí tâm tin" nhờ nương tựa Kinh giáo học tập gầy dựng Tín tâm, hoặc là buông xuống vạn duyên, nhất hướng chuyên niệm, như thế lâu dần cũng tăng trưởng Tín tâm, hoặc là tu theo lối 'tu mù', tức chẳng biết giáo lý gì cả, cứ ưa thích việc niệm Phật mà niệm mãi [lâu dần sẽ đạt "chí tâm ưa"], hoặc giả là được thiện tri thức khai thị cái rồi phát khởi Tín tâm chân thật 'niệm Phật, Phật rước' [hay sẽ có lợi ích chân thật] rồi cứ thế hành trì mãi, không thoái chuyển, không dao động Tín tâm, cũng chẳng cần biết thêm giáo lý gì cả,... Những dạng như này thời xưa có nhiều, vãng sanh thật thù thắng, để lại biểu pháp niệm Phật vãng sanh thật viên mãn. Còn thời nay thì sao? Thời buổi đất chật người đông, đa số sống ở thành thị đông đúc ồn náo, nông thôn thì cũng chẳng còn là nông thôn như trước nữa, rồi lại cái thời đại thông tin bùng nổ, tạp loạn, đa chiều, công nghệ hóa số hóa này kia, nên rõ ràng tu theo lối tu mù, hay chỉ cần một lời khai thị khuyên dạy mà vẫn giữ vững trọn đời Tín Nguyện tâm không đổi, không bị dao động, thì đúng chỉ hàng 'Pháp khí' tức hàng tái lai, hay bậc Thánh nhân xuất thế thì mới có được, chứ còn như phàm phu chúng ta thì hơi bị khó đấy, nếu không muốn nói là không thể, nhất là với dạng tu đường dài, còn phải 'chiến đấu' va vấp nhiều trong đạo ngoài đời, còn nhiều trách nhiệm bổn phận phải gánh vác. Với các bậc cao niên, các cụ già, hay các ca đau bệnh ngặt nghèo, sắp ra đi này kia, nói chung tu trong đoạn cuối, quãng ngắn thì được, có thể buông xuống tất cả, nhất hướng chuyên niệm mà về. Nhưng nói chung dù gì đi nữa nếu biết [và còn đủ khả năng] nương tựa Kinh giáo để tu học, để biết nắm bắt những giáo lý cốt yếu của các Ngài chỉ dạy thì vấn đề [để thành tựu] sẽ trở nên rõ ràng, cụ thể và chắc chắn hơn gấp nhiều lần, so với dạng không nương giáo lý để tu học. Vấn đề là cái giáo lý để nương tựa, học tập đó là gì, rằng có 'trúng' hay không? Tức là phải chuẩn xác, đúng Chánh Pháp, rồi phải cô động, đơn giản, dễ hiểu dễ hành, tránh lan man, phù phiếm hay dạng 'lý huyền lý diệu', 'văn tự cao siêu' này kia thì thôi, học như thế thà đừng học đừng biết còn hơn, thật sự vậy.
Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc và học tập.
Văn Sao Tam Biên, quyển 2
Đại Sư Ấn Quang
Như Hòa chuyển ngữ
