Giai Nhân Áo Phượng

NPSTD7

 

Giai Nhân Áo Phượng

Lời giới thiệu của hội Phật Giáo:

Đây là bài viết của Cư sĩ Triệt Ngộ, là một hội viên đã nhớ lại và kể về tiền kiếp của mình, khiến người đọc xong phải chấn động. Tác giả có ký ức cực tốt, có thể nhớ lại cả thời còn lót tã, cũng nhớ luôn kiếp vừa rồi mình từng đọa địa ngục, thọ tội ra sao.

Trước khi đọa địa ngục, tác giả từng là một cô gái có dung nhan bá mỵ thiên kiều, do bị lừa dối tình cảm, tiền tài, mà treo cổ tự tử.
Do chết với tâm sân mãnh liệt nên lập tức bị đọa địa ngục, thọ nhiều thống khổ. Bây giờ, mời bạn hãy nghe tác giả kể:

“Tôi hồi nhỏ có trí nhớ rất tốt, ngay từ thuở còn nằm nôi tôi đã biết và nhớ hết mọi chuyện xảy ra: Chẳng hạn như lúc tôi đang nằm trong nôi thì thấy mẹ bệnh suyễn, phụ thân chích thuốc cho… rồi lúc tôi tập đi, bị bầy ngỗng rượt đuổi như thế nào… đến nay thảy đều nhớ rất rõ.
Có lúc trong não tôi còn xuất hiện một số hình ảnh rất kỳ quái, đó là cảnh một cô gái thanh lâu bị đọa địa ngục.
Đôi khi tôi kể cho cha mẹ nghe những điều này, thì họ luôn phì cười và âu yếm bảo tại tôi còn nhỏ nên suy nghĩ bá láp không đâu! Nhà tôi theo ngoại đạo, thờ Thần chứ không thờ Phật.
Năm sáu tuổi, bà ngoại dẫn tôi đến Thần đàn (đài thờ thần) cho tôi tham gia nghi thức tên là “Lễ khai mở Thiên nhãn”: Tôi được uống rượu tẩm máu tay, viết phù chú rồi đốt.
Từ giây phút đó, cánh cửa nối liền ký ức tiền kiếp được mở ra, khiến tôi nhìn thấu suốt kiếp trước của mình, mỗi một cảnh tượng, hình ảnh đều rất rõ ràng! Hóa ra kiếp trước tôi là một kỹ nữ, mặc áo Phượng tiên thướt tha, ưa xem “ca tử hí” nhưng không biết thời đó thuộc về niên đại nào. Do từ nhỏ gia cảnh khó khăn, tôi phải vào nấu bếp cho một nhà giàu nọ, vì có nhan sắc, nên bị ông chủ nổi tà dục cưỡng hiếp, sau đó thì tôi vào thanh lâu làm kỹ nữ.

Vợ chồng chủ thanh lâu rất yêu thương, đối với tôi cực kỳ tốt. Lúc đó tôi là một hoa khôi trẻ trung, duyên dáng, nên đã lợi dụng sắc đẹp của mình lừa gạt tình, tiền… của biết bao người, cuối cùng thì bị một công tử khác lừa gạt lại, khiến tôi mất sạch hết tiền, tình.

Tôi phẫn hận cực độ, lòng luôn muốn báo thù và không chịu nổi thống khổ nên đã treo cổ tự vẫn. Tôi thấy cái xác (thây thịt) của mình đã chết, nhưng hồn lại đi đến một nơi to lớn, có lửa cháy phừng phừng, ở đây có đủ nam, phụ, lão, ấu… sắc mặt người nào cũng ủ rũ buồn thảm, dường như tất cả chúng tôi đều bước vào một con đường đã định, tỏa lực hút mạnh mẽ vô hình khiến mọi người đồng lao thẳng vào đó. Đi một hồi, thì gặp ngả rẻ, mọi người tản ra tứ tán, tôi và một đám người cùng đi đến chỗ có cây cầu độc mộc bắc qua vực sâu thường gọi là cầu Nại Hà, trong đây âm u lạnh ẩm, tiếng thét, gào, kêu, khóc… vang dậy, từng luồng hơi xú uế tanh nồng máu huyết, xông lên mũi tôi.
Rất nhiều người từ trên cầu ẩm ướt, tối tăm, trơn trợt kia bị té nhào xuống dưới. Tôi không muốn đi tiếp, nhưng không có quyền tự quyết, đành cứ thế mà bước lên cầu, đi không bao lâu thì cũng bị trượt chân, té nhào xuống. Bên dưới là một vực sâu hun hút rộng hơn biển cả nữa vì không thấy biên giới hay bến bờ.
Trong đây có đủ loại mãng xà, lớn, bé… đang nhe nanh cắn xé chúng tôi.
Những con rắn này nhiều không đếm xuể, hung hãn tấn công tôi.
Sau đó tôi mới phát hiện ra: Trong biển máu này có rất nhiều người nhưng không thấy được đầu họ, bởi vì ai cũng giống tôi, đều chìm mau trong biển rắn, những con rắn này liên tục cắn xé thân chúng tôi, khiến gân cốt rã rời, máu tuôn không ngớt.
Thân tôi giống như bị bom đạn công phá tan nát, cảm giác thống khổ tận cùng, nhưng trong phút chốc, da thịt xác thân tôi lại hồi phục nguyên trạng, rồi lại bị cắn xé hành hạ tan nát tiếp, cứ thế mà tái diễn màn thọ khổ đó mãi.
Lúc này tôi mới biết đây là địa ngục. Nghiệp lực hiện núi đao biển lửa, cột đồng, chảo dầu, hành tội…Tôi chỉ muốn sớm được ra khỏi cái biển máu ung thối tanh hôi, lúc nhúc độc xà tấn công kia, tôi mơ hồ nghe tiếng bao người thọ khổ kêu rên, âm thanh rất yếu ớt.
Nếm đủ khốn khổ rồi, cuối cùng tôi cũng rời khỏi nơi hành hạ này, đến được bờ.
Nhưng trèo lên bờ vẫn chưa phải là kết thúc thọ khổ nơi địa ngục. Vừa ra khỏi biển rắn, mới bò lên bờ thì tôi thất kinh khi nhìn thấy một vị “Thần”, tôi chỉ biết gọi là “Thần” thôi, vì ông ta trông rất cao lớn, mặc đạo bào màu xám đen, tướng mạo cực kỳ trang nghiêm, không giống như các Thần thờ ở thế gian, ông chẳng hề mở miệng nói, chỉ dùng cách trò chuyện bằng “tâm linh giao cảm”, nghĩa là không có ngôn ngữ nào được tuôn ra ở đây (giống như cách truyền thông bằng tư tưởng vậy).Tự dưng tôi hiểu ra: Bởi vì tôi không có tín ngưỡng nào hết, nên vị hiện trước mắt tôi không mang hình dáng tôn giáo nào.
Do tôi không tin Thần hay Phật, ngỗ nghịch với cha mẹ, sống chuyên dối gian gạt lường, lại hành nghề kỹ nữ dâm tà thất đức ở chốn thanh lâu, tôi chuyên lợi dụng mỹ sắc để gạt hại các nam nhân cho đến chết… vì gây tạo đủ tội ác, nên tôi mới tới chỗ này thọ khổ. Ông “Thần” khuyên tôi: Sau khi nhận hình phạt rồi, thì phải nỗ lực tu hành. Lúc đó tôi chẳng hề có chút tâm hổ thẹn ăn năn, luôn cảm thấy mình vô tội, là kẻ không có lỗi, tôi uất ức, nổi đóa, khi nghĩ: “Tại người gạt lường khiến tôi phải ngậm hờn treo cổ, vậy mà chết xuống đây còn bị độc xà cắn xé”… thế là tôi nổi thịnh nộ xung thiên… vị Thần liền biến mất. Ông Thần biến mất rồi, tôi bị mấy tên quỷ sứ da vàng (như đau gan) xua đuổi tôi chạy lên ngọn núi cao, đường gập gềnh chông chênh, khiến tôi bị vấp té… Ngay lúc bị té tôi mới nhận ra có cả rừng dao nhọn, đủ hình dạng kích cỡ: Ngắn, dài, to, bé từ dưới đất nhô lên, bất kể tôi đi đến đâu, chỉ cần vừa té ngã, thì những mũi dao sắc bén này liền tự động “tấn công”, giống như “bàn chông” hay “bẫy kiếm” không ngừng “băm vằm” thân thể chúng tôi, khiến xương rơi thịt nát, máu chảy không ngừng, đau đến tôi chết ngất.
Sau đó thể xác lại hồi phục nguyên trạng và tôi tiếp tục lãnh cực hình này, thống khổ không gián đoạn. Cảnh hành tội y như trong Kinh Phật tả không khác, sau này học Phật rồi tôi mới biết.
Vì trong “Lương Hoàng Sám” từng viết: Mãn kiếp địa ngục may gặp Thiện tri thức, nghe các vị Bồ Tát quở trách, khuyên răn: “Phải biết ăn năn cải hối, nguyện tu sửa để thoát khổ”. Nhưng do tôi quá hung hãn, cứng đầu, ương bướng nên phải ở đó thọ hình rất lâu. Đến giờ hồi tưởng lại, cảm giác về những thống khổ vô gián đó vẫn mới mẻ, như vừa mới tái hiện trên thân tôi.
Địa ngục quả đúng y như Kinh Phật mô tả: Từ tầng trên, đọa xuống tầng dưới, bị chó đồng nổ sủa và nhai xương nuốt tủy.
Ngục tốt La sát cầm chỉa ba đâm vào đầu… tội nhân bị lửa đốt khắp thân, lưới sắt phóng mưa đao.
Đao theo lỗ chân lông đâm vào thân thể. Khi tôi ra khỏi núi đao rồi, thì bị ném vào một cái cối xay to khủng khiếp, to không thể tả! Nhìn nó đang chuyển động ầm ầm, tôi rất sợ bị nghiền nát, nhưng tìm không ra chỗ để trốn, đành cứ chạy vòng vòng trên mặt cối, nhưng chẳng mấy chốc thân tôi bị xay nghiền, đau đớn vô kể… rồi sau đó thân xác lại hồi phục nguyên vẹn, lại bị xay nát tiếp, tôi nghe thanh âm tru khóc rên la không ngớt của các tội nhân, họ chạy, đứng, nằm, ngồi… hỗn loạn, thảy đều bị xay nhuyễn nhừ. Thoát cối xay, tôi bị trói vào cột đồng rực đỏ, lửa cháy bốn bề, da thịt bị thiêu khét lẹt, thần thức mịt mờ. Thân bị đốt cháy tiêu rồi thì lại hồi phục nguyên trạng.
Tiếp đến tôi bị trói vào một cột đồng lớn khác, quỷ sứ dùng móc câu bén nhọn lôi lưỡi tôi ra cho đến khi nó đứt lìa, tuôn máu dầm dề, đây là đền tội ác khẩu, chửi rủa, đâm thọc thêu dệt dối trá. Sau đó tôi bị ném vào chảo dầu, thân thể giống như heo bị rán, không ngừng lăn lộn, sưng phình, cảm giác như thân bị một loại bom đạn cắt xẻ, đau đớn cực kỳ, thọ khổ tận cùng.
Nhưng rồi thân tôi lại hồi phục như cũ, chỉ cần ló đầu ra khỏi chảo, là lập tức bị quỷ sứ dùng cây chỉa ấn xuống chảo dầu lại, bắt phải thọ tiếp cảnh bị chiên rán.
Cứ thế, tôi dở sống, dở chết… hình phạt này cứ tái diễn mãi, khổ hết chỗ nói.
Do tôi tạo quá nhiều ác nghiệp, khi làm bếp cũng từng chiên rán, băm vằm, giã xay… loài vật còn đang sống, nên đây chỉ là nếm lại những gì mà mình gieo mà thôi.

Ra khỏi chảo dầu rồi, tôi và đám đông đi đến một nơi đất khô khốc, phải nắn đất thành từng viên tròn (lớn có nhỏ có, hình trạng và số lượng không đồng), hoàn thành rồi thì ném vào trong hồ lô của mình.
Cảnh này giống như làm lao dịch vậy, có người do đất khô quá, nắn không thành hình. Từ lúc xuống địa ngục tới giờ chẳng được ăn uống gì, nên ai cũng mệt và đói, nắn đất xong thì đi đến vùng giống như hỏa khu, tất cả giao hồ lô bi ra và mỗi người nhận được một chén đầy mủ trắng vừa thúi vừa khai! Có lẽ do nhân duyên tiền sinh còn in sâu, tôi thấy ăn uống như vầy quá kỳ cục, nên không thèm dùng! Đầu thai chuyển thế. Sau đó, tôi được dẫn đến trước một vị chấp pháp (Phán quan), ông này mày rậm, mắt to, nhìn không dữ mà rất có uy.
Cũng giống như vị Thần tôi gặp trước biển rắn, ông dùng phương thức “tâm linh giao cảm” để nói cho tôi biết là tôi sẽ đầu thai vào thế gian làm con gái, ông dặn tôi: “Ngàn vạn lần không nên tạo ác nghiệp, không được lừa gạt người nữa, mà phải hành thiện tích đức, tu hành cho nhiều vào”. Nghe ông nói xong, tôi vô cùng bất mãn, liền hướng chấp pháp kêu than! Viện cớ rằng đã có quá nhiều khổ đau tôi phải thọ chất chồng, nên không cam tâm làm nữ nữa, tôi muốn được làm nam để báo thù! Nghe tôi bày tỏ vậy, quan chấp pháp lộ vẻ rất kinh ngạc, ông không hiểu vì sao tôi đã thọ đủ khổ hình mà không bị lú lẫn quên tuốt, ngược lại còn nhớ rất rõ chuyện cũ? Nhưng ông vẫn kêu tôi đi sắp hàng, và phát cho mỗi người một thẻ bài có số, có màu.
Tôi lãnh thẻ màu hồng, ai nấy lãnh thẻ xong thì tự đi đến xếp hàng trước một cái cổng y theo màu sắc cái thẻ mình cầm trên tay, chờ đi đầu thai. Lúc đó, tôi nghe mấy tên quỷ sứ bàn tán lao xao:

– Màu hồng đầu thai làm nữ, màu xanh đầu thai làm nam, màu lục đầu thai làm vịt, màu tía đầu thai làm… Vừa nghe tới đó tôi vội lẻn qua hàng ngũ kế bên ngay vì tôi không muốn làm nữ, cho nên thừa lúc người không chú ý tới, tôi giựt thẻ màu xanh của đối phương và đưa thẻ hồng của mình cho họ. Thấy quỷ sứ lao tới, tôi nhanh chân chạy trốn, lẫn vào rừng người thẻ xanh.
Sợ quỷ ngăn cản, tôi liền chạy đến một vùng có rất nhiều nhà.
Lúc đó là đêm tối, thấy ở đây có nhà sáng đèn, có nhà không.
Tôi căn cứ vào số ghi trên tấm thẻ bài mà dò tìm ra số cửa, lập tức đi vào, thế là đầu thai thành nam tử như hiện nay. Oan gia ngõ hẹp lại tương phùng. Đời này, khi tôi vào Đại học chuyên khoa, quen với một bạn gái chính là bạch diện công tử đã lừa tôi ở kiếp trước.
Lần đầu vừa gặp, hai bên đã thấy hết sức quen, như đã từng biết nhau lâu lắm rồi.
Dần dần, ảnh hưởng tình tiết đời trước càng lúc càng rõ hơn, cuối cùng vì cha mẹ phản đối, hơn nữa tôi cũng không muốn nối lại tiền duyên, thế là chia tay (may là tôi không còn tâm muốn báo thù nữa). Còn cặp vợ chồng chủ thanh lâu đời trước, kiếp này là cha mẹ ruột của tôi.
Chàng trai bị tôi gạt lường hại chết, kiếp này thành là vợ tôi.
Hồi mới gặp, tôi cảm thấy rất quen nhưng sống không hợp ý, bởi vì đời trước tôi không hề yêu, nên đời này nội tâm đối với cô cũng thường sinh chán ghét vô duyên vô cớ.
Do vậy mà cô luôn ôm hận đối với tôi và cư xử với người nhà tôi hết sức lạnh nhạt.
Hai bên thường dùng chiến tranh lạnh để hành nhau.
Mặc dù tôi kiếm rất nhiều tiền đem về cho cô, trả lại nợ lừa gạt tiền ngày xưa nhưng cô chẳng bao giờ tỏ ra hài lòng. Đời trước có một nam tử thường giúp tôi dẹp bao bất bình, nay là bạn chí thân của tôi. Sám hối tội ác quá khứ, cảnh tỉnh thế nhân tu học Phật rồi, tôi hiểu mọi sự đều do nhân quả.
Kiểm điểm lại bản thân mình, tôi nhận ra tất cả toàn do tâm tham ái, chấp thủ mà ra.
Đến đời này, tập khí xưa vẫn chưa mất.
Nhưng kiếp này tôi sẽ không mê muội tạo ác nữa, sẽ không tranh giành tài lộc, không dùng thủ đoạn để chiếm lấy nữa… Nếu cứ chạy theo tâm tham dục không đáy, mình sẽ khổ mãi. Tôi và người bạn gái đầu sớm đã chia tay và ai nấy đều có cuộc hôn nhân riêng, nhưng nếu nhìn nhận một cách trung thực thì tôi vẫn khó quên cô ta, trong sâu thẳm tận đáy lòng tôi nhận ra mình vẫn còn nặng tình với cô ta.
Nhưng tôi biết đây chỉ là nghiệp duyên, là ảo giác vọng tưởng mê muội nên không lao theo. Do đời trước tôi treo cổ chết, nên đời này tôi không dám mặc y phục có cổ, vì rất sợ tái hiện cảm giác đau nơi yết hầu. Lại do đời trước tôi từng làm nghề nấu bếp, cho nên kiếp này nghệ thuật nấu nướng của tôi rất tuyệt. Bởi vì đã nếm qua cảm giác bị chiên trong chảo dầu, cho nên tôi đặc biệt sợ nóng, không sợ lạnh.
Đời này hễ nhìn thấy cối xay chuyển động là tôi liền sinh hoảng sợ, toàn thân nổi ốc hết. Tóm lại những thói quen và ký ức đời trước hoàn toàn không tiêu mất. Nhìn lại những thống khổ đã trải qua, trong đây lời dạy hiếm có của vị Thần và quan Chấp pháp đã giúp tâm tôi mở sáng.
Tôi hiểu rõ: Làm người phải trọng tín, không nên lừa gạt, không làm thương hại người, không được làm việc gì trái với lương tâm. Tôi cũng biết, cuộc sống đa số do nghiệp lực quyết định, “tự làm tự chịu”, ta tự nếm quả mình trồng.
Người hại tôi cũng không phải cố ý muốn hại tôi, tôi khổ là do phải trả báo theo luật nhân quả.
Cho nên đối với tha nhân, tôi nên bao dung khoan thứ và không được khởi tâm sân hận. Đã nếm và hiểu rõ khổ địa ngục như thế nào rồi, bạn nghĩ tôi sẽ mê đắm ngũ dục, vùi đầu tạo ác nữa được sao? Tuy kiếp trước tôi là kẻ đại ác, vô tôn giáo, nhưng kiếp này tôi đã biết tìm đến Phật pháp, vâng hành theo lời chư Phật dạy vì cảnh địa ngục trong Kinh tả, giống y như tôi đã gặp. Tôi bây giờ chỉ muốn tu mà thôi, tu tinh tấn đến giải thoát và không tha thiết gì ở thế gian này, tôi rất muốn được về cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà, tu cho thành đạo, rồi quay lại độ chúng sinh khổ đau ở đây. Thông qua kinh nghiệm này, tôi xin thành tâm sám hối tất cả lỗi lầm đã tạo trong dĩ vãng, cầu chư Phật, Bồ Tát gia hộ, để tôi có thể tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng thiện căn, vãng sinh Tịnh Độ, thoát luân hồi. “Thực ra tất cả chúng ta đều từng xuống địa ngục, vì trong tâm chúng ta đầy niệm ác.
Nhưng do cách ấm mê muội nên không nhớ ra thôi.
Có người thậm chí còn là khách thường trực của địa ngục nữa kia, đây gọi là “mới thoát ra lại tìm vào”.
Địa ngục vốn không, do ta tạo nghiệp ác mà hiện thành. Tam giới không an, như đi trong nhà lửa, chẳng nên lưu luyến! Tôi không dám nói chi người khác, chỉ lấy chuyện của bản thân mình mà chứng minh, tất cả hình phạt thống khổ tôi từng chịu nơi địa ngục là do thân, khẩu, ý tạo ác (sát, trộm, dâm, vọng v.v… tôi đều phạm hết).
Tôi từng là đầu bếp giỏi, chuyên sát hại sinh vật, hầm, nướng, quay, chiên… nên tôi cũng nếm mùi núi đao băm vằm, chảo dầu chiên rán, miệng tôi nói ác, lưỡi phạm nhiều tội, nên bị móc, cắt lưỡi… vì tội dâm tà nên bị thiêu cháy, ôm cột đồng. Nếu như đời này tôi không biết ăn năn sám hối, không tỉnh giác tu sửa, lại tiếp tục tạo ác, thì chuyện tôi đọa địa ngục chắc chắn sẽ xảy ra. Nếu ta thừa nhận địa cầu này tồn tại? Thế thì không thể phủ nhận sự tồn tại của địa ngục và Tịnh Độ! Nghiệp lực vô tận, thế giới vô tận, chúng sinh vô tận… Chỉ có Phật Pháp là con đường giúp chúng ta thoát ly ba cõi, ra khỏi khổ đau.
Đối với điều này tôi tin kiên quyết không nghi, lòng chỉ muốn vĩnh viễn thoát ly cõi khổ, sinh về cõi Phật tu hành.
Chuyện tôi kể quý vị có tin hay không, còn tùy thuộc vào phúc phận của quý vị. Xin hãy lấy chuyện của tôi làm gương, mà tránh tạo ác nghiệp.
Mong tất cả siêng nghe Phật pháp, nghiêm trì giới luật, chăm chỉ tu hành để thoát ly tam giới, ngàn vạn lần không nên trồng nhân xuống địa ngục”.

Cư sĩ Triệt Ngộ

 

ht1

 

Lời người dịch:

Câu chuyện này tôi dịch từ hai năm trước, nhưng do e ngại mãi nên đến giờ mới tung ra.
Có một điều rất thú vị là ngay khi bắt đầu dịch, tôi không biết người đang kể là nam hay nữ? Cuối cùng mới biết…! Khi dịch đến đoạn bàn về thẻ xanh, thẻ hồng… tôi cũng nghi là với tính cách đó đương sự sẽ tráo đổi, nhưng tại sao lại tráo đổi được? Tôi từng đọc nhiều tâm sự của những người đã trải qua địa ngục.
Về căn bản thì giống, nhưng so tiểu tiết thì khác, không ai giống ai.
Tôi nghĩ đương sự tráo thẻ được cũng là một chiêu “an bài” của Phán quan, có thể ông dư biết đương sự sẽ làm thế.
Thực ra thân phận, giới tính nào cũng đòi hỏi phải có phúc báu tương xứng, không thể do gian dối mà tranh giành được.
Tôi đã cố gắng dịch câu chuyện này thực đầy đủ, không bỏ sót một tình tiết nào, hầu mong bạn hiểu rõ thêm về địa ngục. Điều quý nhất là người tự thuật đã giác ngộ, hiện tại tuy ông đi giữa hồng trần mà tâm vượt trên hồng trần!

 

Trích Báo Ứng Hiện Đời

Người dịch: Hạnh Đoan

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.