Chánh kinh:
Phục thứ A Nan! Bỉ Phật quốc độ, vô hữu hôn ám, hỏa quang, nhật, nguyệt, tinh diệu, trú dạ chi tượng, diệc vô tuế, nguyệt, kiếp số chi danh, phục vô trụ trước gia thất. Ư nhất thiết xứ, ký vô tiêu thức, danh hiệu, diệc vô thủ xả phân biệt, duy thọ thanh tịnh tối thượng khoái lạc.
Lại này A Nan! Cõi nước Phật ấy chẳng có tối tăm, ánh lửa, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cảnh tượng ngày đêm; cũng không có danh từ năm, tháng, kiếp số, cũng lại chẳng trụ trước nhà cửa. Hết thảy mọi nơi đã chẳng có tiêu thức, danh hiệu, lại cũng chẳng có phân biệt lấy bỏ, chỉ hưởng khoái lạc thanh tịnh tối thượng.
Giải:
Trong đoạn này, trước hết nói rõ cảnh tướng vô phân biệt; kế đến thuật rõ tâm niệm không phân biệt.
Câu “vô hữu hôn ám, hỏa quang, nhật, nguyệt, tinh diệu, trú dạ chi tượng” (không có tối tăm, ánh lửa, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cảnh tượng ngày đêm) tổng hợp từ năm bản dịch. Hai bản dịch đời Hán và Ngô nói đến mặt trời, mặt trăng, hư không; bản Ngụy dịch chẳng nói rõ là có hay không; bản Ðường dịch và Tống dịch cùng nói chẳng có mặt trời, mặt trăng.
Sách A Di Ðà Sớ Sao bảo: “Nếu nói một cách dung hòa thì tuy có mặt trời, mặt trăng, nhưng bị quang minh của Phật và thánh chúng che lấp nên cũng như chẳng có. Xét về mặt Lý, phải không có mặt trời, mặt trăng mới hợp lẽ. Vì sao vậy? Từ cõi trời Ðao Lợi trở lên đã không cần đến mặt trời, mặt trăng, huống là cõi Cực Lạc?” Theo Liên Trì đại sư, xét về mặt Lý thì phải không có mặt trời, mặt trăng mới đúng. Hội bản đây lấy ý hai bản Ðường dịch và Tống dịch, nói thẳng là chẳng có mặt trời, mặt trăng, thật phù hợp với ý của Liên Trì đại sư: Từ trời Ðao Lợi trở lên, chư thiên còn chẳng cần đến mặt trời, mặt trăng huống hồ là thế giới Cực Lạc ư?
Bản Hán dịch lại ghi: “Vô Lượng Thanh Tịnh Phật đảnh trung quang minh cực đại minh. Kỳ nhật, nguyệt, tinh thần, giai tại hư không trung trụ chỉ, diệc bất phục hồi chuyển vận hành, diệc vô hữu tinh quang. Kỳ minh giai tế bất phục hiện” (Quang minh từ trên đảnh của Vô Lượng Thanh Tịnh Phật (tức là A Di Ðà Phật) sáng chói cùng cực; mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao đều bị ngưng giữa không trung chẳng xoay chuyển vận hành được nữa, cũng chẳng còn có tinh quang. Các quang minh ấy đều bị khuất lấp, chẳng còn hiện). Câu này rất phù hợp với cách nói dung hòa của đại sư Liên Trì, quang minh của mặt trời, mặt trăng cõi ấy bị quang minh của các vị thánh che lấp chẳng hiện được như kinh này đã nói: “Nhật, nguyệt, hỏa, châu giai nặc diệu” (Mặt trời, mặt trăng, lửa, châu đều bị ẩn giấu ánh sáng).
“Diệc vô tuế nguyệt kiếp số chi danh” (Cũng chẳng có danh từ năm, tháng, kiếp số): Trong cõi thế gian này thì phải có năm, tháng, ngày, đêm, kiếp số vì địa cầu, mặt trăng, mặt trời, tinh vân… đều vận hành, tự chuyển hoặc là bị chuyển động (do Thái Dương hệ chứa các tinh tú ấy cũng xoay vần) nên bèn có ngày, đêm, một tháng, một năm, một kiếp v.v… Do đó, năm tháng dần trôi.
Với ý “phục vô trụ trước gia thất” (lại cũng chẳng trụ trước nhà cửa), các bản dịch cũng chẳng hề nói xác quyết là có nhà cửa hay không.
Câu kinh: “Sở cư xá trạch tận cực nghiêm lệ, hoặc tại hư không, hoặc tại bình địa” (Nhà cửa họ ở đều hết sức trang nghiêm, đẹp đẽ hoặc ở trên hư không, hoặc trên mặt đất) trong phẩm Thụ Dụng Cụ Túc ở phần trước đã nói rõ chẳng phải là nhất định không có nhà cửa; chữ “vô” dùng trong đoạn này chỉ có nghĩa là chẳng chấp trước vào tướng nhà cửa.
Hội chúng cõi Cực Lạc nghe toàn âm thanh Vô Ngã nên tâm họ thanh tịnh một cách tương ứng với điều được nghe, không có các phân biệt. Ðã không có Ngã thì làm sao có ý tưởng “nhà cửa của mình”? Vì vậy đối với nhà cửa mình ở chẳng hề chấp trước. Do đó, kinh nói: “Phục vô trụ trước gia thất” (Lại không trụ chấp nhà cửa). Hơn nữa, do Nhân và Ngã đều không, nên mọi thứ cần gì đến “tiêu thức, danh hiệu” (tiêu thức là những biểu tượng nhằm để phân biệt một cá nhân; chẳng hạn như các huy hiệu gia tộc).
Diệu cảnh như vậy chính là do trí và tâm xa lìa “thủ xả phân biệt” (phân biệt lấy bỏ) tạo thành. Tâm tịnh ắt quốc độ tịnh, tâm lìa phân biệt nên cảnh cũng chẳng phân biệt. Tâm ấy, cảnh ấy vốn chẳng phân biệt.
Trí và cảnh như một, dứt tuyệt các trần cấu nên bảo: “Duy thọ thanh tịnh tối thượng khoái lạc” (Chỉ hưởng khoái lạc thanh tịnh tối thượng) như kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ nói: “Duy hữu vô lượng thanh tịnh hỷ lạc” (Chỉ có vô lượng hỷ lạc thanh tịnh).

Ảnh minh họa: "Này Xá Lợi Phất, Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng, chiếu suốt mười phương cõi nước không bị chướng ngại, cho nên có tên là A Di Đà. Lại này Xá Lợi Phất, mạng sống của Phật kia và nhân dân của Ngài, vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, cho nên có tên là A Di Đà".
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Chúng ta đến với Phẩm 22, Quyết Chứng Cực Quả. Trên đây là đoạn Kinh văn mô tả cảnh giới, cảnh vật nơi cõi nước ấy. Dĩ nhiên là cõi nước ấy không có nhật nguyệt, tinh tú, ngày đêm gì cả. Chỉ có quả đất này là có các thứ đó, vì quả đất này là một hành tinh xoay quanh mặt trời trong Thái dương hệ này, nên phải có nhật nguyệt, tinh tú, ngày đêm. Mà mặt trời vốn cũng chỉ là một vì sao trong vô vàn vì sao khác trong vũ trụ. Còn thế giới Cực Lạc, hay các cõi nước Phật khác, thì mỗi nơi là một câu chuyện khác nhau, chẳng hạn thế giới Ta Bà này thuộc cõi quốc độ của Phật Thích Ca, sẽ có những đặc thù riêng như vậy, các cõi Phật khác cũng thế, cũng có những đặc thù riêng, có cõi thì còn ba đường dữ [chẳng hạn Ta Bà đây], có cõi không có đường dữ, có cõi có sự khổ có cõi thì không còn cái khổ nữa... Còn cõi nước Cực Lạc của Phât A Di Đà cũng là một câu chuyện khác, chỉ thuần vui không còn tiếng khổ [chứ đừng nó có khổ], nhân dân cõi ấy mạng sống trường cữu, vô lượng, "chẳng có tối tăm, ánh lửa, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cảnh tượng ngày đêm; cũng không có danh từ năm, tháng, kiếp số, cũng lại chẳng trụ trước nhà cửa". Chô "cũng lại chẳng trụ trước nhà cửa" ý nói nhà cửa tuy có nhiều, đa dạng, tùy theo ý thích, nhưng tâm "không trụ" vào chúng, tức tâm không có chấp trước, phân biệt, chiếm hữu vào chúng như ở đây. Bởi cõi ấy muốn gì có nấy, muốn sao ra vậy, muốn có muốn biến đi mất chỉ trong một ý niệm, cho nên tâm chẳng trụ, chẳng tham đắm vào đó gì cả, chứ chẳng phải là nói cõi đó không có nhà cửa, chúng ta đọc các Phẩm khác sẽ thấy rõ điều này.
Câu "chỉ hưởng khoái lạc thanh tịnh tối thượng", tức cõi ấy có 'hưởng' khoái lạc nhé chứ chẳng phải chỉ có 'trang nghiêm, thanh tịnh' không đâu. Nhưng khoái lạc này là hỉ lạc, pháp lạc từ nội tâm và Pháp hỉ đem lại, chứ không phải dạng khoái lạc từ dục lạc như ở cõi Dục này. Chúng ta phải phân biệt rõ cái này, cho nên cõi ấy 'hưởng' khoái lạc nhưng không tạo nghiệp [như ở đây, từ ăn, uống, ngủ, nghỉ, thụ hưởng vật chất...], mà chỉ tăng thêm đạo tâm đạo lực mà thôi. Tức là cảnh giới ở đó đã lìa khỏi sanh tử luân hồi rồi, ngang với bậc Thánh quả trở lên, tức "vui như Tỳ Kheo lậu tận" [A La Hán]. Sở dĩ có được điều này là nhờ cảnh duyên, y báo, chánh báo, nguyện lực của Phật mà tạo thành như thế, chứ chẳng phải do chúng sanh tu tập mà chứng đắc được [những điều này]. Cái này chúng ta phải lưu ý kỹ như vậy, kẻo lại có người bảo còn phàm phu [như ông, bà] mà được về cõi ấy ư, như thế làm ô uế cõi nước người ta ra! Dạ không có chuyện làm ô uế hay vấy đục gì ở đây cả, chúng ta yên tâm, về được đó tự nhiên mọi thứ sẽ thay đổi hẳn, đó là nhờ nguyện lực của Phật, chứ chẳng phải từ năng lực hay công phu của chúng sanh gì cả, nên chúng ta yên tâm mà tin tưởng, đừng hoài nghi, dẫu ai có nói gì nói vẫn cứ mặc. Chúng ta đọc phần chú giải của các Ngài [trích lược] để hiểu rõ hơn về nghĩa lý của đoạn Kinh văn này.
Chúng ta dành chút thời gian để tiếp tục việc học tập gầy dựng Tín Nguyện tâm cho chân thật đầy đủ, để một đời này cùng được siêu sanh Tịnh Độ, siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử vậy. Như đã từng biết, với hành giả Tịnh Độ thì việc gầy dựng Tín Nguyện tậm rốt cuộc lại cũng chỉ là gầy dựng Tín tâm để tin chắc chẳng nghi Di Đà Bổn Nguyện, thế là đủ, chẳng cần dài dòng văn tự làm gì. Dĩ nhiên là phải theo hiểu đúng nghĩa lý, rằng Kinh sao hiểu vậy, không được 'pha trộn' hay thêm bớt gì cả để thành ra các kiến giải khác nhau để 'dễ tin' hơn, như thế là không được. Nếu chưa tin được thì cần phải bỏ thời gian công sức ra học tập, gầy dựng, 'thọ trì' để cho đạt được, chứ chẳng phải không tin được rồi tự suy lường theo cái trí của mình lời Kinh lời Phật để cho 'tin được' [theo kiến giải đó], như thế thành ra 'thế trí biện thông' mất, không còn chân thật học tập, nương theo lời Phật dạy rồi. 'Thế trí biện thông' tức là dùng cái trí phàm [thế gian] để biện luận, liễu nghĩa ra lời Kinh Phật thuyết, như thế thì như Kinh nói thì chỉ tăng thêm 'tà kiến', càng làm cho hành giả khó tin hơn nữa ["ác, kiêu, biếng nhác và tà kiến"]. Cho nên, để gầy dựng được Tín tâm chân thật, chẳng nghi, thì trước hết phải hiểu cho đúng đắn nghĩa lý Kinh văn cái đã [tức Bổn Nguyện], rồi sau đó tin hay không tin hay chưa tin sẽ tiếp tục 'tập' sau, chúng ta phải đi từng bước như thế, chẳng thể 'một bước lên mây' được đâu. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải luôn duy trì và quyết tâm để đạt được điều này [Tín tâm chân thật], chứ chẳng phải dạng 'cưỡi ngựa xem hoa' hay tìm cách phản bác lại, bởi học tập mà với cái tâm như thế thì dẫu học trọn đời cũng vô ích, chẳng thể tiến lên được. Ví dụ học sinh thi giải một bài toán, phải quyết tâm tìm ra lời giải đó thì mới mong giải được, chứ còn cứ tìm cách 'chứng minh' rằng giám khảo đã ra đề sai hay không ai giải được, thế thì làm sao tìm được lời giải đây. Mà 'giảm khảo ra đề' ở đây là gì? Dạ đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vậy, không lẽ Ngài 'ra đề' sai [tức cái Pháp] không đúng chăng?
Trở lại vấn đề học tập gầy dựng Tín tâm, tức quy tụ lại chỉ cần tin chắc chẳng nghi Di Đà Bổn Nguyện, thế là đủ, bởi vậy vấn đề đã trở nên đơn giản, không còn khó khăn phức tạp nữa, do từ cái Lý "Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật, nên Bổn Nguyện không hư dối", nên chắc chắn Di Đà Bổn Nguyện phải chân thật, không hư dối được, bởi nếu hư dối thì làm sao có "Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật"? Cho nên từ cái Lý đó chúng ta sẽ dễ dàng đạt được tín tâm chân thật chẳng nghi với Di Đà Bổn Nguyện vậy. Mà trong Di Đà Bổn Nguyện có nói là "nãi chí thập niệm" [dẫu chỉ mười niệm], cho nên chúng ta cũng tin chắc chẳng nghi điều này [tức nội dung Bổn Nguyện], thế thì chúng ta hàng ngày niệm Phật cầu sanh Cực Lạc thì chắc chắn cũng được vãng sanh vậy, không thể nghi ngờ điều này, vì điều này cũng thuộc nội dung Bổn Nguyện [rằng "cho đến mười niệm" còn chắc chắn được vãng sanh, huống hồ hàng ngày niệm đây], còn như Phật không rước ta thì chắc chắn Bổn Nguyện là hư dối, điều này là không thể! Cho nên mấu chốt vấn đề đó là hành giả phải tin chắc chẳng nghi Di Đà Bổn Nguyện [chân thật, không hư dối], thế là đủ, mọi vấn đề thuộc Tín tâm sẽ được giải quyết trọn vẹn vậy. Bởi vậy các Ngài mới nói là hành giả Tịnh Độ chỉ cần chẳng nghi Di Đà Bổn Nguyện [hiểu cho đúng] thì lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh là vậy, tức đã có Tín Nguyện tâm đầy đủ, nên chắc chắn thành tựu.
Cho nên các Ngài mới khuyên dạy rằng hãy nương Kinh giáo Bổn Nguyện mà tu học là như vậy, tức là đã biến một vấn đề phải nói là không dễ, rất khó [Pháp khó tin] thành ra không còn khó khăn phức tạp nữa, vấn đề chỉ là chú tâm học tập, gầy dựng cho đúng đắn, chân thật, đừng chạy theo các tư tưởng nghĩa lý thông thường của thế gian rồi đem áp vào đây, thành ra nó 'trật chìa' hết trơn, chẳng trúng gì cả [may ra trúng với Pháp Biên Địa]. Chứ nếu không nương Kinh giáo, nghĩa lý, mà bảo hãy tin chắc chẳng nghi 'niệm Phật, Phật rước' hay phải tin chắc ta đây niệm Phật nên chắc chắn được Phật rước, mà chẳng thông qua cái lý nào cả [tức không thông vì sao lại như vậy], cứ cố tin theo kiểu áp đặt, thế thì phàm phu đây làm sao làm nổi, hoặc giả chỉ được ba bảy hai mốt ngày là dao động, lui sụt ngay, nhất là dạng còn phải gánh vác, va chạm tiếp xúc ngoài đời trong đạo nhiều, thời gian tu tập hãy còn dài lâu, chưa thể buông xuống tất cả được. Bởi vậy, Chư Tổ Sư các Ngài đã chỉ cho phàm phu chúng ta một cách thức để biến một điều rất khó thành điều không khó, tức hoàn toàn có thể, miễn là chúng ta có đủ tâm huyết, kiên trì theo đuổi học tập thì sẽ sớm có được thôi.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 22. Quyết Chứng Cực Quả (trích lục)
Ngài Hoàng Niệm Tổ
