Chánh kinh:
Phục thứ Cực Lạc thế giới sở hữu chúng sanh, hoặc dĩ sanh, hoặc hiện sanh, hoặc đương sanh, giai đắc như thị chư diệu sắc thân. Hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ minh liễu, thần thông tự tại. Thụ dụng chủng chủng nhất thiết phong túc, cung điện, phục sức, hương, hoa, phan cái, trang nghiêm chi cụ, tùy ý sở tu, tất giai như niệm.
Lại nữa, trong Cực Lạc thế giới, tất cả chúng sanh, hoặc là đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, đều được các sắc thân mầu nhiệm như thế. Hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại. Hết thảy các thứ thụ dụng dư dật, cung điện, phục sức, hương, hoa, phan, lọng, vật trang nghiêm, tùy ý cần thứ gì đều được như lòng mong.
Giải:
Mấy câu đầu trong đoạn kinh này để tiếp nối ý chúng sanh trong cõi ấy “dung sắc vi diệu” nói trong phẩm trước nên mới chép là tất cả chúng sanh hoặc là đã vãng sanh trong quá khứ, hoặc đang vãng sanh trong hiện tại, hoặc sẽ vãng sanh trong tương lai, đều được “như thị chư diệu sắc thân, hình mạo đoan nghiêm” (sắc thân nhiệm mầu như thế, hình mạo đoan chánh, trang nghiêm). Chữ “như thị” (như thế) chỉ thân họ vượt xa thân của Lục Dục thiên vương đến ngàn vạn ức lần.
Những câu kinh tiếp đó nói rõ về sự thụ dụng đầy đủ. Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ nói: “Do bỉ giới trung chư hữu tình loại, vô hữu nhất thiết thân tâm ưu khổ, duy hữu vô lượng thanh tịnh hỷ lạc” (Do các hữu tình trong thế giới ấy chẳng có hết thảy nỗi khổ nơi thân, nơi tâm, chỉ hưởng vô lượng hỷ lạc thanh tịnh); phẩm Quyết Chứng Cực Quả trong kinh này cũng bảo: “Duy thọ thanh tịnh tối thượng khoái lạc” (Chỉ hưởng khoái lạc thanh tịnh tối thượng). Ðó là “phước đức vô lượng”.
“Trí huệ minh liễu” (Trí huệ sáng suốt) là kết quả của nguyện “quang minh, trí huệ, biện tài”. Phật đã nguyện: “Thành tựu hết thảy trí huệ”; phẩm Bồ Tát Tu Trì trong kinh này cũng nói hết thảy Bồ Tát trong cõi ấy “chư Phật mật tạng, cứu cánh minh liễu” (đối với các tạng bí mật của chư Phật đều hiểu rõ rốt ráo). Những câu như vậy đều diễn tả ý “trí huệ minh liễu”. Hơn nữa, trong chữ “minh liễu”, “minh” (明) là minh bạch rõ ràng, “liễu” (了) là rạch ròi phân minh. Cái gọi là “như thật tri tự tâm” (biết tự tâm đúng như thật) trong Mật Giáo chính là trí huệ sáng suốt. Câu “chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không” (soi thấy Ngũ Uẩn đều không) cũng diễn tả ý: Trí huệ sáng suốt.
“Thần thông tự tại” chính là “thần thông biến hóa, nhất thiết thiên nhân bất khả vi tỷ, bách thiên vạn ức, bất khả kế bội” (Thần thông biến hóa hết thảy trời, người chẳng thể sánh nổi, vượt hơn thần thông trời, người cõi này đến trăm ngàn vạn ức chẳng thể tính lần). Trong phẩm Bồ Tát Tu Trì, có câu: “Dĩ phương tiện trí, tăng trưởng liễu tri, tùng bổn dĩ lai, an trụ thần thông” (Dùng trí phương tiện tăng trưởng sự hiểu biết rõ ràng; xuất phát từ cái gốc, an trụ trong thần thông). Do vậy, thấu hiểu được cái gốc của thần thông thì mới có thể biến hóa thần thông tự tại vô ngại. Vì vậy mới nói: “Đản đắc bổn, mạc sầu mạt” (Ðã nắm được cái gốc, còn lo chi cái ngọn).
Căn Bản Trí chính là cái gốc, các thứ thần thông chỉ là tánh chất phụ thuộc của Thánh Trí. Do phước đức vô lượng nên cảm được “thụ dụng chủng chủng nhất thiết phong túc” (hết thảy các thứ thụ dụng đều dư dật). Lại do trí huệ thần thông nên “cung điện, phục sức, hương, hoa, phan cái, trang nghiêm chi cụ, tùy ý sở tu tất giai như niệm” (cung điện, phục sức, hương hoa, phan, lọng, vật trang nghiêm tùy ý cần dùng thảy đều thỏa lòng mong).
Ảnh minh họa: “Xá Lợi Phất, vì sao cõi đó tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh trong cõi nước đó không có những sự khổ, chỉ thọ hưởng các điều vui, nên cõi đó tên là Cực Lạc"
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Chúng ta đến với Phẩm 19, Thụ Dụng Cụ Túc. Đây tiếp tục là Phẩm nói về Y báo và Chánh báo nơi cõi Cực Lạc, mô tả một cách cụ thể rõ ràng hơn. Cụ thể trong đoạn Kinh văn này đó là "Hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại". Chúng ta đọc đoạn chú giải của các Ngài để hiểu rõ hơn về ngữ nghĩa của đoạn Kinh văn này.
Những điều này từ đâu mà có? Không lẽ chỉ cần niệm mười niệm hay một niệm mà lại có công đức, trí huệ, thần thông quảng đại thù thắng đến nhường ấy? Bởi theo Kinh văn là "mười niệm tất sanh" hay "nãi chí thập niệm" thì được sanh về cõi ấy rồi cơ mà [và sẽ có được những điều như thế]? Thật ra vấn đề không phải ở niệm một niệm hay mười niệm, mà là ở chỗ liệu có nhân duyên bắt gặp, rồi có chịu tin tưởng Pháp môn này, có chịu hành trì theo, rồi có chịu sanh về cõi ấy hay không? Những cái này không phải chúng sanh nào cũng có được, bởi nếu thiếu "thiện căn, phước đức, nhân duyên" thì sẽ không thể có được những điều này. Để có được những cái quả này thì trước đó cần phải gieo cái nhân từ trước đó, cho nên Phật mới nói trong Kinh rằng: "Nếu xa xưa không tu phước huệ, thì Chánh Pháp này không thể nghe. Đã từng cúng dường các Như Lai, nên hay vui mừng tin Pháp này". Do đó, để có được những điều như trên thì hành giả đã gieo căn lành từ xa xưa rồi, chứ không phải chỉ một niệm mười niệm mà có thể 'tạo ra' được như thế. Bởi dẫu có niệm nhiều niệm đi nữa, hay thậm chí niệm mãi suốt đời luôn nhưng chẳng tin tưởng, chẳng chịu về, cứ thích ở lại thế gian này thì cũng chẳng được những điều đó [do chẳng được sanh về, dù là Biên Địa].
Cho nên nhiều người cứ nói 'một câu A Di Đà Phật là đủ', vậy đủ ở đây là đủ cái gì? Chúng ta xem trong thế gian đây liệu có mấy ai hàng ngày cứ chịu chăm chỉ niệm Phật cầu sanh về Cực Lạc? Cho nên nói 'đủ' ở đây là chỉ dành cho những ai đã được bắt gặp, đã chịu tin và hành theo Pháp môn này và chân thật cầu sanh về cõi ấy. Mà để có được những cái này thì chúng sanh trước đó từ xa xưa đã "tu phước huệ" rồi, chứ không thì dễ gì cứ hàng ngày chịu chấp trì một câu Phật hiệu mãi [để cầu sanh về]. Người thế gian họ niệm Phật ít nhiều gì đó thì cũng không phải ít, có thể nói vô số kể luôn, nhưng đâu phải ai cũng tin theo tu học Pháp môn này, để cầu vãng sanh liễu thoát sanh tử trong đời này đâu? Còn như muốn luận nói chữ 'đủ' ở đây, thì phải nói như thế nào mới chuẩn xác, theo đúng Kinh văn? Đó chính là "nãi chí thập niệm" [dẫu chỉ mười niệm], như thế là đủ, rất cụ thể, rõ ràng, không có mập mờ [dĩ nhiên phải có Tín Nguyện tâm đầy đủ chân thật]. Chứ nói 'một câu A Di Đà Phật là đủ' vậy thì bao nhiêu mới đủ? Niệm cả đời chăng? Vẫn chưa đủ! Lâm chung chánh niệm niệm Phật? Vẫn chưa đủ! Niệm cuối cùng phải nhất định là A Di Đà Phật? Vẫn thiếu! Vậy phải thế nào nữa? Lúc đó phải chí thành tâm mà niệm Phật mà cầu sanh về cõi ấy nữa, như thế mới thực sự là đủ [để được sanh về Biên Địa]. Cho nên để nói Pháp cho chuẩn xác thì cần y cứ từ Kinh văn, không được tự ý 'phang ngang', muốn nói sao nói. Chúng ta thử đọc khắp tất cả Kinh điển Tịnh Độ có chỗ nào Phật nói 'một câu A Di Đà Phật là đủ' [sanh về Cực Lạc] không?
Còn nếu nói theo kiểu 'tu mù' đó là câu chuyện hoàn toàn khác, tức chẳng cần Kinh điển hay giáo lý gì cả, cứ một câu Phật hiệu chân thật mà niệm đi, nhất định cuối đời sẽ được Phật rước [hay đại khái là cứ hiểu sẽ có được lợi ích chân thật], vấn đề là phải tin tưởng chẳng nghi điều này nữa mới được, tức như thế đã ngầm có Tín tâm Nguyện tâm chân thật trong đó rồi vậy. Điều đó đồng nghĩa với gì? Dạ đó là đừng có 'bắt' người ta phải nghe theo cái kiến giải rằng 'lâm chung phải chánh niệm niệm Phật, Phật mới lai nghinh', bởi như thế rõ ràng thiếu Tín tâm chân thật, bởi nếu nhỡ lâm chung không niệm được thì coi như xong, đúng không? Như vậy thì làm gì có chuyện 'nhất định cuối đời được Phật rước' [mà phải thế này thế kia nữa]. Cho nên chúng ta thấy chẳng thà không biết gì, cứ chân thật hành trì, còn một khi đã biết thì phải biết cho chuẩn xác vậy.
Trở lại với phần Kinh văn trên, chúng ta thấy nhân dân cõi ấy sau khi được sanh về là 'tự nhiên' có được mọi thứ, từ "Hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại". Nói chung đúng là một đại Bồ Tát hay đại A La Hán gì đó vậy, gọi là 'một bước lên mây' luôn vậy, chẳng cần phải trải qua quá trình tu tập rèn luyện gì cả. Đó chính là những phương tiện thiện xảo mà Đức Phật đã ban tặng cho nhân dân cõi ấy từ khi được sanh về đó, để làm phương tiện tu tập hành đạo, tiến bước trên con đường Bồ Đề, đồng thời cũng để chung tay trợ duyên cùng Phật để độ thoát chúng sanh khắp thập phương, giống như mình trước đây cũng đã từng được như vậy, rằng triển chuyển không nghỉ. Cho nên đọc đoạn Kinh văn này, nếu so với các cõi Trời, Chư Thiên, hay thậm chí các bậc Thánh quả A La Hán đi nữa, thì thần thông đạo lực, công đức phước báu của họ đều vượt trỗi hơn hẳn, lại liễu thoát sinh tử, chứng bất thoái nữa. Riêng cái "chứng bất thoái chuyển" [tức A Duy Việt Trí, hay A Bệ Bạt Trí Bồ Tát] đã tương đương với Bồ Tát Bát Địa trở lên, nếu tự tu chứng, tức từ A La Hán đến địa vị đó là cả một chặng đường rất xa nữa [mà không phải vị nào cũng có thể vượt qua được]. Nói chung nếu luận về các Pháp tu tự lực tu chứng thì có ba cái mốc quan trọng hành giả cần phải vượt qua, đó là thứ nhất mốc liễu thoát sanh tử, tức đắc A La Hán; thứ hai là mốc chứng Bất thoái chuyển, tức địa vị Bát Địa Bồ Tát; và cuối cùng đó là phá phẩm vô minh cuối cùng để viên chứng Phật quả. Đó là ba cột mốc quan trọng mà không phải hành giả đương nhân nào cũng có thể vượt qua nổi, chẳng hạn, với mốc thứ hai, thì không phải vị Bồ Tát nào cũng có thể vượt qua được, tức cứ trồi lên trụt xuống mãi thôi, thời gian không biết lâu xa bao nhiêu, không thể tính đếm được, với các cột mốc đó, dĩ nhiên các vị ấy không còn phải sanh tử nữa, nhưng để tiến lên thì không phải lúc nào [hay vị nào] cũng có thể tiến lên mãi được.
Còn với nhân dân Cực Lạc thì đó là câu chuyện khác. Một khi về được cõi ấy thì họ 'mặc định' chắc chắn đã vượt qua được một số cột mốc đó [hai cái đầu] và chắc chắn sẽ tiến tới chinh phục cột mốc cuối cùng để thành tựu Phật quả, thời gian dài ngắn bao lâu thì tùy năng lực tu tập của mỗi hành giả vậy, nhưng không ai không được đảm bảo thành tựu viên mãn cả, bởi cõi ấy chỉ có tiến mà không có lùi hay dừng lại gì cả. Nhân đây, chúng ta phân tích dài dòng ra như thế để cùng thấy được cái 'giá trị chân thật' của việc được sanh về cõi ấy là ra sao, như thế nào. Như thế để xem rằng việc gầy dựng Tín Nguyện tâm của chúng ta nó có 'giá trị' ra sao, để chúng ta ra sức phấn đấu học tập, hành trì, để quyết chí phải đạt được 'Y giáo phụng hành' lời Phật dạy trong Kinh mới được [như thế đồng nghĩa đảm bảo thành tựu vãng sanh trong đời]. Chứ không thì chúng ta cứ bảo sao lại phải cứ 'bắt' học tập, gầy dựng Tín tâm hoài làm chi cho mệt vậy? Ấy là chưa kể nếu một khi chẳng được về cõi ấy [chẳng được thọ dụng những điều trên] mà trái ngược lại tương lai có thể phải vào Tam đồ thì chúng ta hiểu ra sao rồi đó.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 19. Thụ Dụng Cụ Túc
Ngài Hoàng Niệm Tổ