Lời Phật Dạy Răn Rất Sâu, Rất Lành

NPSTD7

 

Lời Phật Dạy Răn Rất Sâu, Rất Lành

Di Lặc bạch ngôn: - Phật ngữ giáo giới, thậm thâm, thậm thiện, giai mông từ ân, giải thoát ưu khổ. Phật vi pháp vương, tôn siêu quần thánh, quang minh triệt chiếu, đỗng đạt vô cực, phổ vị nhất thiết thiên nhân chi sư. Kim đắc trị Phật, phục văn Vô Lượng Thọ thanh, mỵ bất hoan hỷ, tâm đắc khai minh.

Ngài Di Lặc bạch rằng: - Lời Phật dạy răn rất sâu, rất lành, [chúng con] đều được nhờ từ ân giải thoát ưu khổ. Phật là đấng pháp vương, tôn quý, cao siêu hơn các thánh, quang minh chiếu cùng tột, thấu suốt vô cực, làm thầy của khắp hết thảy trời, người. Nay được gặp Phật, lại nghe danh hiệu đức Vô Lượng Thọ, không ai chẳng hoan hỷ, tâm được khai minh.
Giải:
Ngài Di Lặc lãnh ngộ lời Phật, tự mừng vui sâu xa, tỏ bày lời tán tụng bằng cách bạch rằng: “Phật ngữ giáo giới, thậm thâm thậm thiện” (Lời Phật dạy răn rất sâu, rất lành).
Hai chữ “giáo giới” được sách Câu Xá Giới Phẩm Tụng Sớ giảng: “Giáo (敎) là dạy dỗ khiến người tu thiện; Giới (誡) là răn đe khiến người đoạn ác. Ðoạn ác tu thiện nên gọi là Giáo Giới”. Sách Hội Sớ lại nói: “Giáo là lời người trên bảo kẻ dưới. Giới là ngăn chặn, ước thúc. Lời nói thấu triệt thật lý nên bảo là rất sâu, chuyển phàm thành thánh nên bảo là rất lành”.
Pháp âm thấm nhuần rộng rãi, khiến cho khắp mọi người nghe “giai mông từ ân, giải thoát ưu khổ” (đều được nhờ từ ân giải thoát ưu khổ). Sách Hội Sớ giảng: “Giải thoát ưu khổ là được nghe pháp yếu dứt bặt những nỗi lo trôi nổi, no say pháp lạc, thoát khổ sanh tử”. Ý nói: Ðược nghe pháp yếu nên dứt được nỗi lo bị trôi nổi trong sáu đường; nếm no nê pháp lạc nên trừ được cái khổ sanh tử.
“Phật vi pháp vương” (Phật là đấng pháp vương) là như kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương đã chép: “Như Phật vi chư pháp vương” (Như Phật là vua của các pháp). Như Lai tự tại nơi pháp nên được xưng tụng là “pháp vương”. Phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa có câu: “Ngã vi pháp vương, ư pháp tự tại” (Ta làm pháp vương tự tại nơi pháp). Ta là lời đức Thích Ca tự xưng. Chữ “quần thánh” (羣聖) chỉ các bậc thánh nhân đã đoạn Hoặc, chứng Lý từ Sơ Quả của Tiểu Thừa trở lên và từ Sơ Ðịa của Ðại Thừa trở lên. Phật là đạo sư của cả chín cõi, là bậc tôn quý nhất trong các thánh nên ngài Di Lặc bảo Phật “tôn siêu quần thánh” (tôn quý, cao siêu hơn các thánh).
Quang minh của Phật chiếu cùng tột, thấu suốt chẳng có ngằn hạn nên bảo là “quang minh triệt chiếu, đỗng đạt vô cực” (quang minh chiếu tột, suốt thấu vô cực). Ngài Tịnh Ảnh lại giảng là: “Quang minh triệt chiếu là tự phước thù thắng, thấu suốt vô cực là tự trí thù thắng”. Ngài lại giảng chữ “vô cực” như sau: “Danh cảm động mười phương, nhiếp thọ kẻ có duyên nên bảo là vô cực”.
Tổng hợp cả hai cách giải thích này thì hiểu thấu cái Không đến mức vô cực chính là tự trí rốt ráo thông đạt Ðệ Nhất Nghĩa Không, chứng ngộ triệt để Lý Thể chính là đại trí, cho nên bảo là “thù thắng”.
Phổ độ chúng sanh hữu duyên trong mười phương chẳng có ngằn hạn thì chính là đại bi. Như Lai từ Thể khởi Dụng, vận Dụng cả Bi lẫn Trí nên diệu dụng vô tận. Như vậy là ngài Di Lặc đã khen ngợi Phật đức: Phước lẫn trí đều siêu việt, thù thắng.
Thêm nữa, một trong mười hiệu của Phật là Thiên Nhân Sư. Trên trời, dưới thế chỉ có mình đức Phật là tôn quý. Ngài dạo khắp mười phương làm đại đạo sư nên bảo là: “Phổ vị nhất thiết thiên nhân chi sư” (Làm thầy của khắp hết thảy trời, người).
“Trị” (値) là gặp gỡ. Kinh dạy: “Nhân thân nan đắc, Phật nan trị” (Thân người khó được, Phật khó gặp) nên “kim đắc trị Phật” (nay được gặp Phật) là điều vui mừng lớn lao.
“Phục văn Vô Lượng Thọ thanh” (Lại được nghe danh hiệu đức Vô Lượng Thọ) là như kinh dạy: “Tín, huệ, văn pháp nan trung nan” (Tín, huệ, nghe pháp là điều khó nhất trong các điều khó); huống hồ lại được nghe diệu pháp bất khả tư nghị: Sáu chữ hồng danh, Nhất Thừa nguyện hải tối cực viên đốn. Sách Di Ðà Yếu Giải cũng nói: “Chẳng luận chí tâm, tán tâm, hữu tâm, vô tâm, hoặc hiểu hay chẳng hiểu, chỉ một phen danh hiệu Di Ðà thoảng qua tai thì dẫu cho ngàn vạn kiếp sau cũng nhờ đó mà được độ thoát”.
Vì thế, pháp này khiến cho hội chúng hoan hỷ, mừng rỡ, khai phát Phật trí, hiểu rõ tự tánh. Bởi vậy, ngài Di Lặc mới bảo: “Tâm đắc khai minh”. Sách Hội Sớ bảo: “Khai phát Phật trí, đoạn diệt vô minh nên bảo là khai minh”. “Mỵ bất hoan hỷ” (Không ai chẳng hoan hỷ) nghĩa là cả đại hội đều hoan hỷ.

 

DL33

Ảnh: Tượng Di Lặc Bồ Tát trên đỉnh núi Cấm An Giang

"Một trong mười hiệu của Phật là Thiên Nhân Sư. Trên trời, dưới thế chỉ có mình đức Phật là tôn quý. Ngài dạo khắp mười phương làm đại đạo sư nên bảo là: “Phổ vị nhất thiết thiên nhân chi sư” (Làm thầy của khắp hết thảy trời, người)."

Vậy rõ ràng ai mới chính là vị Thầy thật sự của [tất cả] chúng ta? Đó chính là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Hay nói cách khác, nếu ai không nhận [và tuân theo] lời dạy của Ngài thì thành ra kẻ 'tăm tối', không có giáo dục, và chắc chắn tương lai sẽ là 'một màu xám xịt', rất đáng thương.

Bởi thế, "Nay được gặp Phật, lại nghe danh hiệu đức Vô Lượng Thọ, không ai chẳng hoan hỷ, tâm được khai minh.". Đối với chúng ta ngày nay thì "Nay được gặp Pháp Phật, được nghe danh hiệu Đức Vô Lượng Thọ, Pháp môn Tịnh Độ...", giống như thấy được ánh sáng cuối con đường hầm. Giữa cõi đời ngũ trược này, mà vẫn có lối thoát ra, mang trong mình đầy rẫy Phiền Hoặc mà vẫn có [đầy đủ] cơ hội giải thoát, lìa khổ được vui ngay trong một đời này. Thật sự là may mắn, hoan hỉ lắm thay!

Sẽ có nhiều người nói một cách 'không khách sáo', rằng thì là, gặp được Tịnh Độ, đúng là một nhân duyên thù thắng thật, nhưng thử thực tế xem, ngày nay người tu [Tịnh Độ] thì nhiều, nhưng người thành tựu [vãng sanh] được bao nhiêu? Xin thưa thực [với họ] rằng, những người chân thực hành trì Pháp môn này, chân thực cầu vãng sanh về cõi ấy [những người không chân thực không tính tới vì là giả] mà cuối đời vẫn bị 'rớt', đó là do họ không thấy được sự vi diệu thù thắng của Pháp môn này [nên cũng chẳng thể phát khởi lòng tin chân thật được]. Thật đáng tiếc! Chứ bản thân họ không thiếu thứ gì cả, thiện căn phước đức sâu dày, tâm huyết, siêng năng tinh tấn, chân thực cầu giải thoát... Vì thế, rất cần có những người Thầy, các Bậc giảng sư, thiện tri thức... tiếp nhận [một cách đúng đắn] lời Phật lời Tổ, rồi giảng thuyết lại cho đúng về Tông chỉ của Pháp môn vi diệu này [khắp mười phương Chư Phật không vị Phật nào không tán thán]. Được như thế thì lợi lạc cho chúng sanh lắm lắm, giúp cho bao nhiêu chúng sanh phàm phu thoát khỏi đọa lạc, liễu sanh thoát tử, vãng sanh thành Phật, ở ngay một đời này. Thử hỏi, công đức đó bao lớn? Có thể nghĩ bàn nổi? Cho nên, rất cần, rất cần các vị như thế xuất hiện nơi cõi đời này, càng nhiều càng tốt.

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 34. Tâm Đắc Khai Minh

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.