Chánh kinh:
Hà dĩ cố? Dục linh tha phương sở hữu chúng sanh, văn bỉ Phật danh, phát thanh tịnh tâm, ức niệm thọ trì, quy y cúng dường. Nãi chí năng phát nhất niệm tịnh tín, sở hữu thiện căn, chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc, tùy nguyện giai sanh, đắc Bất Thoái Chuyển, nãi chí Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Vì sao thế? Muốn khiến cho tất cả chúng sanh trong các phương khác nghe danh hiệu đức Phật ấy phát tâm thanh tịnh, ức niệm, thọ trì, quy y, cúng dường, cho đến phát sanh được một niệm tịnh tín, [đem] tất cả thiện căn chí tâm hồi hướng nguyện sanh cõi kia, tùy nguyện đều sanh, đắc Bất Thoái Chuyển cho đến thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ Ðề.
Giải:
Ðoạn này giảng rõ nguyên nhân chủ yếu vì sao chư Phật khen ngợi: Vì muốn cho chúng sanh nghe danh hiệu sanh lòng tin, phát nguyện cầu sanh, ắt chứng Vô Thượng Bồ Ðề.
Sách Hội Sớ nói: “Ðây chính là nguyện mười tám được thành tựu. Chỗ quy thú của cả bộ kinh chỉ là ở điểm này. Vì sao vậy? Tuy cả bốn mươi tám nguyện đều thù thắng, nhưng Niệm Phật Vãng Sanh là cốt yếu nhất. Tuy sự thành tựu của mỗi nguyện đều là khó thể nghĩ tưởng nổi, nhưng nguyện này thành tựu mới là bất cộng; vì vậy chư Phật ngợi khen”.
Sách Giáo Hạnh Tín Chứng giảng câu “văn bỉ Phật danh” (nghe danh hiệu Phật ấy) như sau: “Chữ Văn (聞) có nghĩa là chúng sanh nghe gốc ngọn sanh khởi của lời Phật nguyện mà chẳng có tâm nghi thì đó mới là Văn”. Nghe danh hiệu được phước nên có thể phát sanh lòng tin thanh tịnh. “Thanh tịnh tâm” chính là lòng tin chẳng nghi, còn có nghĩa là lòng tin trong sạch chẳng cấu nhiễm. Sách Thắng Man Bảo Quật, quyển thượng nói: “Thanh tịnh tâm là lòng tin trong sạch, khởi tâm tin trong sạch, lại còn có nghĩa là tâm chẳng có phiền não lẫn vào thì gọi là tâm thanh tịnh”.
“Ức niệm thọ trì”: “Thọ” (受) là tin nhận, “Trì” (持) là giữ vững, “Ức” (憶) là nhớ đến công đức của Phật, “Niệm” (念) là niệm danh hiệu Phật. “Quy y” (歸依) là thân tâm quy hướng, nương theo chẳng bỏ. “Cúng dường” là như sách Huyền Tán bảo: “Dâng tài, hạnh là Cúng (供); giữ gìn, giúp đỡ là Dường (養)”. Chữ “tài, hạnh” chỉ hai thứ cúng dường:
1. Một là Tài Cúng Dường tức là cúng những vật như hương, hoa, thuốc men, tài vật, đầu, mắt, tủy, não, núi, sông, đại địa…
2. Hai là Pháp Cúng Dường: Tu hành đúng như lời dạy để cúng dường.
Sách Di Ðà Sớ Sao viết: “Thanh Lương đại sư nói: ‘Ðại Hạnh hòa thượng đời Cao Tề tôn sùng niệm Phật, dùng bốn chữ để dạy dỗ: Hai chữ ức niệm chẳng rời nơi tâm; hai chữ xưng kính chẳng rời nơi miệng”. Ðấy chính là ý chỉ của câu “ức niệm thọ trì, quy y cúng dường” trong kinh này.
Sách Sớ Sao còn nói: “Ðể vãng sanh Tịnh Ðộ phải có lòng tin. Ngàn người tin, ngàn người sanh, vạn người tin, vạn người sanh. Tin vào danh hiệu Phật thì chư Phật liền cứu, chư Phật liền hộ trì. Tâm luôn nhớ Phật, miệng thường niệm Phật, thân luôn kính Phật thì mới gọi là thâm tín. Dù phát tâm sớm hay muộn cũng chẳng hề trụ vào pháp nào của cõi Diêm Phù Ðề nữa. Cách thúc đẩy, phát khởi này là thiết yếu nhất”.
Ðoạn kinh này lại đặc biệt nói tới “nhất niệm tịnh tín” và “chí tâm nguyện sanh”; đấy đều là công đức tùy lòng nguyện mà được vãng sanh chẳng thể nghĩ bàn. Sách Hội Sớ giảng chữ “nhất niệm” như sau: “Nghĩa là chánh nhân vãng sanh chỉ cốt ở lòng tin trong mỗi niệm, chẳng nệ là niệm nhiều hay ít”. Sách Giáo Hạnh Tín Chứng cũng nói: “Một niệm có nghĩa là tín tâm không nhị tâm nên bảo là ‘nhất niệm’. Ðấy gọi là Nhất Tâm. Nhất tâm là cái nhân chân chánh của thanh tịnh báo độ, đạt được kim cang chân tâm, vượt ngang khỏi năm đường tám nạn, ắt đạt được mười thứ lợi ích ngay trong đời hiện tại: Một là được quỷ thần, thánh chúng thủ hộ, cho đến điều lợi ích thứ mười là nhập Chánh Định Tụ”. (...)
Trong câu “chí tâm hồi hướng nguyện sanh bỉ quốc” (chí tâm hồi hướng nguyện sanh cõi kia), chí tâm chính là tâm chí thành được nói trong Quán Kinh. Sách Tứ Thiếp Sớ (Quán Kinh Sớ của tổ Thiện Ðạo) nói: “Chí (至) là chân, Thành (誠) là thật. Ý nói: Hết thảy chúng sanh khi tu các hạnh giải nơi thân, khẩu, ý nghiệp thì đều phải thực hiện bằng tâm chân thật; chẳng được bề ngoài làm ra vẻ hiền, thiện, tinh tấn, bên trong ôm lòng hư giả, tham, sân, tà ngụy, gian trá trăm chiều, ác tánh khó lay, sự như rắn rết. Tuy khởi tam nghiệp nhưng chỉ đáng gọi là sự lành tạp độc, cũng gọi là hạnh hư giả, chẳng thể gọi là nghiệp chân thật”.
“Hồi hướng” là đem hết thảy thiện căn chính mình đã tu hướng đến chúng sanh cũng như hướng đến Phật đạo.
Tiếp đó, kinh nói: “Nguyện sanh bỉ quốc” (Nguyện sanh sang cõi kia) là hồi hướng tín hạnh của chính mình để cầu vãng sanh. Ðây cũng chính là tâm hồi hướng phát nguyện trong ba tâm được nói trong Quán Kinh. Kinh dạy: “Nhất giả chí thành tâm, nhị giả thâm tâm, tam giả hồi hướng phát nguyện tâm, cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc” (Một là tâm chí thành, hai là thâm tâm, ba là tâm hồi hướng phát nguyện. Ðủ cả ba tâm, ắt sanh sang cõi kia). (...)

Ảnh minh họa: "Xá Lợi Phất, vì sao cõi đó tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh trong cõi nước đó không có những sự khổ, chỉ thọ hưởng các điều vui, nên cõi đó tên là Cực Lạc".
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Chúng ta đến với phần tiếp theo của Phẩm 23, Thập Phương Tán Phật. Trong phần này Phật nói lên lý do vì sao Chư Phật trong Thập phương lại 'tán' Phật A Di Đà để làm gì? Chúng ta đọc đoạn Kinh văn đó cùng các chú giải của các Ngài để hiểu rõ về đoạn Kinh văn này.
Nói chung lời Kinh, dẫn luận này kia cũng chẳng phải dễ hiểu hay chẳng hề đơn giản, chúng ta chỉ cần biết những ý nghĩa trọng yếu, cốt lõi trong đó để giúp lợi ích trong việc tu tập, hành trì mà thôi. Rằng tựu trung lại, Chư Phật trong Thập phương tán thán Phật A Di Đà, cõi Cực Lạc, cũng là để giới thiệu Pháp môn Tịnh Độ thù thắng này đến với chúng sanh thập phương mà thôi. Để chúng sanh trong khắp Pháp giới có thể "thọ trì" Pháp môn này mà được lợi ích chân thật, được vãng sanh Cực Lạc, vĩnh ly sanh tử, lìa khổ được vui, chứng Bất Thoái Chuyển, cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Cụ thể ở đây đó là gì? "Muốn khiến cho tất cả chúng sanh trong các phương khác nghe danh hiệu đức Phật ấy phát tâm thanh tịnh, ức niệm, thọ trì, quy y, cúng dường, cho đến phát sanh được một niệm tịnh tín, [đem] tất cả thiện căn chí tâm hồi hướng nguyện sanh cõi kia...", đây chính là tập hợp của tất cả 4 Đại Nguyện tiếp dẫn trong 48 Đại Nguyện của Phật. Rõ ràng Chư Phật không muốn chúng sanh tu cầu Pháp hữu lậu, cầu quả báo nhân thiên [bởi các Đại Nguyện khác], mà các Ngài hướng chúng sanh đến đạo giải thoát, rốt ráo, viên mãn, đó chính là phải vãng sanh được về cõi Cực Lạc, cho đến viên thành Phật đạo.
Chỗ "nghe danh hiệu đức Phật ấy phát tâm thanh tịnh, ức niệm, thọ trì, quy y, cúng dường, cho đến phát sanh được một niệm tịnh tín", đây là 4 Đại Nguyện, nhưng tựu trung lại thì chỉ gồm thâu trong một Đại Nguyện 18 vậy, tức từ "ức niệm" [nhiều niệm, vô số niệm, trọn đời], cho đến một niệm tịnh tín [một niệm, mười niệm tất sanh], tức chỗ "cho đến mười niệm" ["nãi chí thập niệm"]. Chữ "tịnh tín" ở đây được các Ngài dẫn chứng, luận giải rất nhiều, với nhiều khía cạnh góc độ khác nhau, nhưng nói theo lối thô mộc đơn giản dễ hiểu đó là phát lên được một lòng tin trong sạch, thanh tịnh, không nhiễm, cụ thể là một lòng tin không có nghi hoặc [bất sanh nghi hoặc], tức không còn có nghi tâm, dị tâm nữa, đơn giản chỉ vậy. Vậy tại sao lại là "một niệm tịnh tín" mà không phải là 'nhiều niệm tịnh tín'? Bởi 'nhiều niệm tịnh tín' thì nghe có vẻ hợp lý hơn chứ, tức tín tâm bền lâu, không đổi. Dạ vâng, đây chính là vì từ cái chỗ "nãi chí thập niệm" trong Đại Nguyện 18, tức dành cho hạng bét, lâm chung mới bắt gặp Chánh Pháp nên chẳng còn thời gian [đủ lâu] để niệm thêm được nữa, nhưng như thế cũng quá đủ rồi, chỉ cần 'một niệm, mười niệm tất sanh', miễn là có đủ Tín tâm chân thật [tịnh tín, lòng tin trong sạnh, không nhiễm tạp tâm nghi hoặc], thế là đủ để thành tựu vãng sanh. Cho nên, quan trọng là ở cái chỗ này, "tịnh tín", thì dù cho hoàn cảnh nhân duyên cở nào đi nữa [thấp nhất như hạng bét] cũng được thành tựu. Nhưng ở đây có một lưu ý quan trọng, đó là "một niệm tịnh tín" này, giống như "cho đến mười niệm" [nãi chí thập niệm], đây là Phật Thích Ca nói [Phật A Di Đà tuyên] là dành cho hạng Bét lâm chung mới bắt gặp Chánh pháp như nói trên, chứ chẳng phải là dành cho hạng thông thường [đã bắt gặp Chánh pháp trước đó] rồi chỉ cần phát lên 'một niệm tịnh tín' hay 'niệm một niệm, mười niệm' mà được thành tựu vãng sanh lúc cuối đâu nhé. Đừng có nhầm lẫn như thế, mà tai hại lắm đấy, đó chính là hiểu không đúng Chánh pháp, rồi cho rằng đâu mà dễ dàng như thế rồi đâm ra nghi hoặc, không tin Chánh pháp mà Chư Phật khắp thập phương đã truyền trao cho chúng sanh. Cụ thể là với các dạng không phải hạng bét kia thì cần phải "ức niệm" [trọn đời, từ lúc phát tâm], phải "thọ trì" [tức y giáo phụng hành], chứ không đơn thuần chỉ "một niệm tịnh tín" như hạng bét kia, tức phải "chí tâm tin ưa" hay nói cách khác là "tịnh tín" trọn đời, cho đến lúc cuối [vẫn "tịnh tín"], chứ chẳng phải bình thời đây phát khởi lên được một [hay nhiều, hay một thời gian] niệm "tịnh tín" xong, sau đó lại thoái chuyển lui sụt, đâm ra mất tín tâm, tâm hoài nghi xem lẫn, tức không còn "tịnh tín" nữa mà thành 'bán tín bán nghi'. lúc tin lúc ngờ, tức tín tâm đã bị nhiễm ô, bất tịnh, như thế là không được, như thế là còn kém cả hàng bét kia, tuy người ta phát tâm muộn, nhưng lúc cuối người ta có được "một niệm tịnh tín", thì cũng được thành tựu. Bởi vậy cho nên, dạng thông thường này các Ngài nói bình thời phải gầy dựng để có Tín tâm chân thật, đầy đủ, tức tin sâu, chẳng nghi, tức phải giữ được "tịnh tín" đến cuối đời, không đổi vậy.
Trên đây là đôi nét nói về "một niệm tịnh tín", để giúp chúng ta hiểu rõ mà thực hành cho đúng. Nói chung tất cả những [Kinh văn] này Phật đều dẫn nhập từ Đại Nguyện 18 mà ra cả [chỗ "chí tâm tin ưa", tức tin chắc, chẳng nghi, và chỗ "nãi chí thập niệm", tức cho đến [một niệm] mười niệm]. Còn các Ngài chú giải, dẫn chứng này kia về chỗ này thì chúng ta có thể đọc đoạn lược trích bên trên hay phần chú giải đầy đủ trong sách Chú Giải. Cũng có nhiều luồng ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau nhiều, nhiều chỗ nặng về văn tự, câu chữ, nếu ai thích thì đọc để tham khảo.
Chúng ta tiếp tục nói một chút về việc học tập gầy dựng Tín Nguyện tâm trong tu học. Chúng ta đã biết việc gầy dựng để có Tín tâm chân thật với Di Đà Bổn Nguyện [tức Lời Thệ Nguyện của Phật, Đại Nguyện 18] là đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định vậy. Bởi có Tín tâm chân thật với Bổn Nguyện thì mới có Tín tâm chân thật với chính mình được. Thử hỏi một người không có được Tín tâm với Bổn Nguyện thì lấy gì làm cơ sở để có Tín tâm chân thật [tin chắc, chẳng nghi] Phật sẽ rước mình đây? Hay là tin chắc đến lúc cuối mình sẽ niệm được một niệm mười niệm để được Phật rước? Như thế vẫn là phải đợi đến lúc cuối cùng [mới biết chắc chắn], cho nên vẫn là hành theo Pháp Biên Địa, tức chưa đủ Tín tâm chân thật, nên nếu được thành tựu vẫn phải vào Biên Địa [và rất cần Hộ Niệm lúc cuối, bởi không có Phật lực che chở, gia hộ]. Hoặc giả là tin 'niệm Phật, Phật rước'? Như thế nếu tin chắc chẳng nghi điều này cho đến lúc cuối luôn thì cũng chắc chắn được Phật rước, vào thẳng Chánh quốc. Nhưng liệu có mấy ai giữ được sự 'tịnh tín' như vậy trọn đời, mà chẳng nương tựa vào một cái Lý, hay một câu Kinh văn nào cả? Trừ phi sống cách ly hoàn toàn với bên ngoài thì được, kiểu buông bỏ tất cả, vạn duyên buông xuống hết, hay bế quan nhập thất thì may ra giữ được. Còn như dạng phải tu đường trường, còn phải va vấp trong đạo ngoài đời nhiều mà bảo giữ vững "niệm tịnh tín" như thế, không hề dao động trọn đời, mà chẳng có một cơ sở lý luận nào [để giải thích cho cái lý do vì sao có đượ điều đó], thì thật sự với thời cuộc như hiện nay đó là điều bất khả thi, nhất là với phàm phu chúng ta, thật sự vậy. Cho nên đừng nghĩ rằng tôi đây tu tập tinh tần, rồi trọn đời này kia rồi chẳng cần gầy dựng làm gì nữa, thêm phiền phức rắc rối, chỉ cần đợi đến lúc cuối tôi niệm mấy câu là Phật đến rước tôi thôi, dạ không đơn giản như vậy đâu ạ, bởi niệm mấy câu lúc đó mà không có Phật lực gia trì che chở mà nếu không được Hộ Niệm đúng pháp đúng lý để đạt được sự "chí thành tâm" mà niệm mà nguyện sanh về là cả vấn đề lớn đấy, nếu không muốn nói là bất khả thi với đại đa số vậy.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 23. Thập Phương Phật Tán
Ngài Hoàng Niệm Tổ
