Nếu chẳng sanh lòng tin phát nguyện cầu sanh Tây Phương...
Nhận được thư, biết ông tu trì tinh ròng, siêng năng, chú trọng khiết tịnh, cung kính, tôi vui mừng, an ủi đến tột bậc. Phàm người tu hành ắt phải lấy niệm Phật làm Chánh Hạnh, lấy trì chú, tụng kinh và làm các chuyện lợi ích làm Trợ Hạnh. Chánh - Trợ cùng hành sẽ như thuận nước căng buồm trong biển khổ sanh tử này, mau được vào biển Tát Bà Nhã (Nhất Thiết Trí). Nếu chẳng sanh lòng tin phát nguyện cầu sanh Tây Phương; cứ niệm Phật, trì chú v.v… hờ hững thì đều chỉ thành phước báo cho đời sau mà thôi! Pháp môn Tịnh Độ thông trên thấu dưới: Kẻ sắp đọa A Tỳ mà niệm Phật còn được vãng sanh; bậc đã chứng Đẳng Giác vẫn phải hồi hướng vãng sanh Tây Phương để mong viên mãn Phật Quả. Đừng vì Mật Tông có nghĩa “thành Phật ngay trong thân này” mà bỏ mặc vãng sanh Tây Phương không bàn tới nữa thì mất mát lớn lao thay!
Như vậy mà còn gọi là phát tâm Bồ Đề, tự lợi, lợi tha được ư?
Trì chú cố nhiên nên kiền thành, khiết tịnh, niệm Phật cũng phải kiền thành, khiết tịnh, nhưng tận tâm tận lực là được rồi. Nếu nói: “Như kẻ đại phú quý lập riêng Phật đường, những kẻ khác đều không có phần tu hành”, có lý ấy hay chăng? Ông tên là Kính Thời, tên tự là Thọ Nhân, hãy lấy pháp môn Niệm Phật để truyền trao cho quyến thuộc, khiến họ sanh lòng tin phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Nếu có thể chí thành niệm Phật, tự nhiên nghiệp chướng tiêu trừ, thân tâm an lạc, sao lại chỉ biết nể sợ, trọn chẳng biết dùng Phật pháp để chỉ dẫn? Như vậy mà còn gọi là phát tâm Bồ Đề, tự lợi, lợi tha được ư? Quyến thuộc như thế, người ngoài cũng như thế. Phàm kẻ nào không bảo ban được thì đành thôi; kẻ nào bảo ban được, ắt phải khuyên lơn, khích lệ. Công đức ấy lớn lắm.
Hiện thời, thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống, trọn không có lúc nào ngưng dứt. Ấy là do hết thảy chúng sanh đồng phận ác nghiệp chiêu cảm! Trong ác nghiệp chỉ có giết chóc là nhiều nhất, chỉ có giết chóc là thảm khốc nhất. Muốn cho thế đạo thái bình, nhân dân yên vui, ắt mọi người phải kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật thì mới là lời bàn luận giải quyết từ căn bản.
Nên biết nỗi khổ của hết thảy những con vật bị giết và nỗi khổ phải trả báo trong tương lai
Ông đã phát tâm niệm Phật lại kiêm trì chú, theo đúng lý nên ăn chay trường. Nếu nói “phải thù tiếp bên ngoài, khó được như pháp”, thì trong lúc thù tiếp phải quyền biến theo phương tiện, nhưng trong những lúc ta có thể làm chủ được thì trọn chớ nên vẫn ăn thịt hết thảy chúng sanh y như cũ. Dẫu trong lúc thù tiếp cũng chớ nên mặc sức tham ăn thì mới nên; còn trong vòng quyến thuộc, hãy nên giảng bàn nhân quả, khuyên họ đừng ăn, thì mới gọi là người tu hành chân thật. Đừng nói: “Ta tu hành nên ăn chay, bọn họ không tu hành, ăn mặn cũng không sao!” Nên biết nỗi khổ của hết thảy những con vật bị giết và nỗi khổ phải trả báo trong tương lai. Vừa thử nghĩ đến, lông trên thân đều dựng cả lên, chẳng những không nỡ mà còn chẳng dám nữa!
Ắt phải lấy niệm Phật làm chủ, làm Chánh Hạnh
Người niệm Phật ai nấy tùy phận, chuyên niệm Phật hiệu cũng được, mà kiêm thêm tụng kinh, trì chú và rộng tu vạn hạnh cũng được. Nhưng chớ nên trọn chẳng có đầu mối thứ tự, ắt phải lấy niệm Phật làm chủ, làm Chánh Hạnh, những thứ khác đều là khách, là Trợ Hạnh thì tốt lắm! Nếu không, sẽ như rải tiền trong nhà, chẳng xỏ thành chuỗi, sẽ không thọ dụng được! Cũng giống như vào biển thiếu kim chỉ nam, chẳng có gì để nương theo.
Chỉ cần coi tượng ấy như đức Phật thật sự, tự nhiên sẽ được phước, được huệ
Thờ tượng Phật, Bồ Tát thì tượng vẽ hay tượng khắc đều được. Chỉ cần coi tượng ấy như đức Phật thật sự, tự nhiên sẽ được phước, được huệ. Nếu vẫn coi là giấy, gỗ v.v… ắt sẽ tổn phước, giảm thọ. Nay gởi cho ông một bộ Văn Sao vừa mới in và một bộ Quán Kinh Sớ của ngài Thiện Đạo. Ngài Thiện Đạo chính là hóa thân của Phật Di Đà, Ngài dạy chuyên tu; phần khẩn yếu nhất là phần chú giải chương Thượng Phẩm Thượng Sanh, xin hãy đọc kỹ!

Ảnh: Tượng Phật A Di Đà bằng lưu ly
Đoạn đầu: Phàm người tu hành ắt phải lấy niệm Phật làm Chánh Hạnh, lấy trì chú, tụng kinh và làm các chuyện lợi ích làm Trợ Hạnh. Chánh - Trợ cùng hành sẽ như thuận nước căng buồm trong biển khổ sanh tử này, mau được vào biển Tát Bà Nhã (Nhất Thiết Trí).
Thời buổi hiện nay và về sau cần Chánh - Trợ song tu, thì sẽ như "thuận nước căng buồm trong biển khổ sanh tử này, mau được vào biển Tát Bà Nhã (Nhất Thiết Trí)", tức mau vãng sanh thoát lìa sanh tử, siêu phàm nhập thánh, chứng bất thoái chuyển. Với hành giả còn trẻ khỏe, còn phải gánh vác trách nhiệm bổn phận với đời, với gia đình, thì càng cần phải vậy, vì sao vậy? Đơn giản là chuyên ròng niệm Phật có làm nổi đâu mà, cùng lắm là chỉ được một thời gian rồi lại bỏ dỡ, mà trong tu hành quan trọng là phải kiên trì, bền lâu, cả đời, không lui sụt, không bỏ dỡ, không đứt quãng, không bỏ cuộc. Chứ tu tập mà nay thế này mai thế khác mốt thế kia thì thôi, tu cả đời cũng chẳng ra gì. Đành rằng tu là sửa là đổi, nhưng phải sửa đổi để cho tốt lên, những gì không đúng sửa lại cho đúng, những gì lầm lạc phải mạnh dạn từ bỏ, thay đổi lại ngay, chứ không phải cứ cố chấp, cứng nhắc không biết 'khế lý khế cơ' là gì, bởi phàm phu chúng ta mới nhập đạo dễ gì không va vấp, lầm lạc bao phen, rồi mới uốn nắn chuẩn mực dần dần. Cho nên chúng ta cần phải thực tế, thực chất, đừng có 'phù du, phù dung' dạng sớm nở tối tàn, có thể là phương thức tu trì chưa thật sự tối ưu [nếu xét về lý] nhưng cứ giữ vững bền bỉ cả đời thì cũng thành 'tối ưu hóa' thôi, như thế còn hơn hẳn dạng chỉ 'tối ưu' một thời gian rồi lại bỏ cuộc, thay đổi phương thức, rồi sau lại tiếp tục thay đổi nữa, như thế là chứng tỏ Tín tâm không vững không chắc nên mới thành ra vậy. Cho nên việc tu trì thời nay cần phải gần gủi, thực tế, dung hòa với cuộc sống thường ngày, như thế thì mới bền vững, ổn định lâu dài, mới ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống, giúp sống tốt đời đẹp đạo, và đặc biệt hơn là mới có thể dễ dàng tự lợi lợi tha, khuyến hóa mọi người xung quanh hữu tình gần xa cùng phát tâm tu học được. Đây không phải là chỉ nói cho hàng cư sĩ tại gia mà ngay cả bậc xuất gia trong chùa, trong tịnh thất thì thời nay vẫn nên phải như vậy, tức cần sâu sát với cuộc sống thường dân, trong đạo ngoài đời đều tỏ thông, hiểu biết, gần gủi, chia sẻ, để cùng sống cùng tu tập trong vòng Trời Đất này, trong cõi trần đầy ô trược này. Bởi, thời thế, con người, xã hội, nhân sinh đã dần thay đổi, đã khác với thời xưa nhiều, cho nên người hành đạo cũng phải thích ứng theo sao cho trọn vẹn cả đôi bề đời, đạo đều tốt đẹp viên mãn hết cả vậy. Chẳng hạn thời xưa bậc xuất gia có thể sống tách biệt với quần chúng, hay ẩn tu trên núi, hay trong cái cốc, cái am, nhưng thử hỏi thời nay mấy ai làm được vậy, mà cho làm được thì làm được bao lâu, liệu có giữ mãi trọn đời cho đến khi viên tịch không, mà dù cho có người làm được thì số lượng được mấy người? Cho nên chúng ta cần thực tế, thức thời, trong đạo gọi là 'khế lý [mà còn phải] khế cơ' nữa mới được, mới dễ thành tựu, và số lượng thành tựu mới nhiều.
Trên đây là nói chung cho tất cả, còn dĩ nhiên với những trường hợp riêng biệt, thì chắc chắc phải cần những 'cơ chế' đặc thù riêng. Chẳng hạn với dạng tu quãng ngắn, hay các ca sắp ra đi thì đương nhiên phải càng chuyên ròng niệm Phật càng tốt. Tuy nhiên điều quan trọng quyết định thành bại chẳng phải ở chỗ là tinh chuyên đến đâu, mà là ở chỗ Tín Nguyện tâm đến đâu mà thôi, cái này mới là yếu tố quyết định. Còn như tinh chuyên cộng với buông xả vạn duyên [thực chất, tâm trí rỗng rang], quyết lòng ra đi sớm về với Phật luôn thì được, tu trì như thế thì khả năng thành tựu rất cao, cho dù ban đầu có Tín tâm chân thật hay chưa có cũng không sao cả, bởi nếu hành đúng chân thật thì một thời gian sau sẽ có [nhờ năng lực câu Phật hiệu được phát huy trọn vẹn, chứ chẳng phải nhờ cái buông xả đâu nhé]. Tuy nhiên đường lối phương cách tu trì này nói thì dễ, nghe 'đã tai' lắm, nhưng hành được và đúng như thế mới khó, không phải ai cũng làm được, nhất là trong thời buổi hiện nay, ngay cả các cụ già, các vị đã xong hết bổn phận ở thế gian, có thể toàn tâm toàn sức toàn thời gian để tu tập cầu giải thoát, tức môi trường hoàn cảnh nhân duyên đầy đủ hết cả, cũng khó có thể làm được thế, nguyên nhân là do 'lực bất tòng tâm', cả một đời làm việc, hoạt động, vì gia đình, con cái, nay nói buông bỏ hết là buông bỏ ngay được sao? Dạng như thế còn vậy huống hồ chi các tầng lớp còn trẻ khỏe, còn trách nhiệm bổn phận này kia đủ cả mà chưa chi đã muốn 'ẩn tu' hay 'buông xả vạn duyên' chăng? Cho nên dạng tu hành theo kiểu tự lực, tức không chú trọng về Tín Nguyện thì thường hay bị 'mắc kẹt' ở chỗ này, làm cho đời đạo không thể dung thông tương hổ cho nhau được, như thế thì làm sao bền lâu và phát triển lớn mạnh dần lên được [đạo tâm đạo lực], mà nguyên nhân sâu xa là ở đâu? Đó chính là Sự - Lý không viên dung được, tức đơn giản là nói được mà làm không được, hành không đúng như lý, hay nói cách khác là nói một đằng làm một nẻo. Cho nên có tình trạng là trong các đạo tràng, các đồng học đồng tu [thân thiết] thì ngoài 'quan trường' thanh thiên bạch nhật chốn đông người thì luôn miệng buông xả nhưng đằng sau lại hay 'rỉ tai' nhau rằng nói buông chứ có ai buông [rốt ráo] được đâu, như thế tức là sao, hiển nhiên chấp nhận Pháp Biên Địa hộ niệm, dù có tu tập siêng năng tính tấn cở nào đi nữa, vẫn bị 'khống chế' như thế, không thể vượt qua được. Đây chính là vấn đề nghiêm trọng [và đáng tiếc] bậc nhất trong hàng tu học hiện thời, bởi đó chính là do không chú trọng gầy dựng Tín Nguyện tâm cho chân thật đầy đủ, mà chỉ biết hành trì, công phu này kia, rồi chờ đợi cuối đời Hộ Niệm, phó mặc cho nghiệp lực, may rủi, hiểm nguy. Phải chi họ chỉ cần chuyển đổi cái ý niệm một chút thôi không nhiều, rằng thay vì chờ đợi được hộ niệm [để lâm chung chánh niệm niệm Phật] thì họ hãy chân thật chờ đợi Phật đến lai nghinh tiếp dẫn, không chút hoài nghi, như thế thì hay hơn biết bao!
Tiếp theo: Nếu chẳng sanh lòng tin phát nguyện cầu sanh Tây Phương; cứ niệm Phật, trì chú v.v… hờ hững thì đều chỉ thành phước báo cho đời sau mà thôi!
Như đã nói trên, ngày nay đa phần chỉ lo hành trì, chẳng chú trọng Tín Nguyện, đa số trong chốn già lam, các Đạo tràng niệm Phật thì thầy trò, đồng tu chỉ thường bảo ban, khuyến nhắc nhau hãy siêng năng, tinh tấn hành trì, rồi học tập nhau xem ai tu tinh tấn hơn ai, ai tu ngày mấy thời, thời lượng tu tập nhiều ít, đi đạo tràng có bỏ sót ngày nào không, rồi lúc công phu có nhiếp tâm không, tâm có bị tán loạn, vọng tưởng nhiều không, rồi tu tập phiền não tham sân si có còn nhiều không, tâm có thanh tịnh không, có buông bỏ được nhiều chưa... nói chung đủ hết cả. Nhưng cái quan trọng bậc nhất thì hầu như chẳng thấy ai nhắc tới, đó là có Tín tâm chân thật không, có còn hoài nghi không? Mà muốn 'kiểm chứng' điều này dễ lắm, mà lại rất chuẩn xác, đó là cứ việc hỏi họ rằng lúc cuối lâm chung có nhất thiết cần Hộ Niệm không là biết ngay thôi. Nếu ai trả lời được rằng với mình điều ấy không quan trọng, có cũng được mà không có cũng chẳng sao, bởi chắc chắn Phật sẽ rước mình, không thể khác được, ai mà trả lời được vậy [một cách thành thật] mới gọi là có Tín tâm chân thật đầy đủ. Còn như nói nhất định phải cần Pháp Hộ Niệm, bởi 'lâm chung phải chánh niệm niệm Phật Phật mới lai nghinh' hay đại khái kiểu vậy, thì xin xác định, rằng Tín tâm chưa được gì cả, nên một là phải reset [làm mới] lại 'tư tưởng đường lối chính sách', xả bỏ những kiến giải không đúng, và học tập gầy dựng lại cho đúng Pháp đúng Lý mới được; còn không cứ giữ vậy thì xác định luôn là cuối đời phải trông cậy vào Pháp Biên Địa rồi, không thể khác được. Mà một khi đã xác định rằng cuối đời phải cậy nhờ vào ban Hộ Niệm rồi nhưng đến lúc cuối lại chẳng có nhân duyên được Hộ Niệm hay được Hộ Niệm nhưng chẳng đúng Pháp đúng Lý thì cũng xác định rằng "chỉ thành phước báo cho đời sau mà thôi", tức 'ở lại lớp' vậy.
Cho nên trong tu tập người có 'trí huệ chân thật' đó là sao? Đó chính là người tin vào Kinh giáo, tin vào chân lý, không nghi. Rằng Kinh giáo nói "Đức Phật kia thành Phật đã mười kiếp, hiện đang thuyết pháp", đây chính là chân lý, không thể nghi, mà để tồn tại cái chân lý này thì Bổn Nguyện phải chắc chắn đã thành tựu, không hư dối, bởi nếu hư dối thì làm sao Phật thành Phật cho được. Đó chính là cái hệ quả kéo theo ắt phải có, rồi từ cái hệ quả này [Bổn Nguyện không hư dối] ắt kéo theo 'mười niệm tất sanh' [tức nội dung của nó, "nãi chí thập niệm"] ắt cũng không hư dối, rồi tiếp đến là đã 'mười niệm tất sanh' thì 'chúng sanh niệm Phật tất nhiên vãng sanh' [cũng chân thật, không hư dối], tức ta đây niệm Phật cũng tất nhiên vãng sanh [chân thật, không nghi]. Đấy việc gầy dựng Tín tâm tức gầy dựng cái 'trí huệ chân thật' là như thế đấy. Chứ chẳng phải nói 'trí huệ chân thật' là phải nhìn thấu được cái thế gian này là giả, không thật [để mà buông bỏ được rốt ráo], điều này cũng đúng không sai, cũng tốt không phải không tốt, nhưng chưa đủ mức độ gọi là 'chân thật', mà để gọi là [trí huệ] chân thật thì ngoài cái nhìn ra đâu là giả, thì cần phải nhìn ra đâu là chân thật, là không giả, không hư dối nữa, và phải tin không nghi cái đó nữa mới được. Đây mới là quan trọng, quyết định. Chứ chỉ biết cái giả không mà chẳng biết cái gì thật [để tin tưởng, nương tựa] thì chưa tới đâu. Rồi chỉ biết không mà vẫn chưa tin vẫn còn hoài nghi đó là biết chưa 'thấu', chưa sâu, nên chưa đủ sức để đánh tan đi mọi nghi hoặc trong tâm mình. Bởi vậy nên nói phải cần có cái quá trình để gầy dựng, học tập, cùng với hành trì, mới có thể có tin sâu, không còn nghi hoặc được nữa vậy.
Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc và học tập.
Văn Sao Tam Biên, quyển 2
Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
Đại Sư Ấn Quang
