Nếu Không Có Cái Tâm Chí Thành Tín Nguyện Niệm Phật Sẽ Không Có Cách Gì Hiển Hiện Được

NPSTD7

 

Nếu Không Có Cái Tâm Chí Thành Tín Nguyện Niệm Phật Sẽ Không Có Cách Gì Hiển Hiện Được

Pháp ngữ dạy nữ cư sĩ Châu Dư Chí Liên
(năm Dân Quốc 20 - 1931)

Tuy thường tinh tấn niệm Phật, trong tâm vẫn chưa quyết định cầu sanh Tây Phương
Bà đã ngoài bảy mươi tuổi rồi, chẳng bao lâu nữa sẽ phải chết. Hiện thời phải nhanh chóng thu xếp hết thảy mọi việc cho tốt đẹp, trong tâm ngoại trừ niệm Phật ra, không để vướng mắc bất cứ chuyện gì khác thì khi lâm chung mới có thể không vướng mắc, không ngăn ngại. Nếu bây giờ cứ vẫn chuyện gì cũng không buông xuống được như thế, vẫn nhìn không thông suốt, khi lâm chung tất cả những tâm tham luyến y phục, đồ trang sức trên đầu, nhà cửa, con cháu sẽ đều hiện ra hết, như thế thì làm sao có thể vãng sanh Tây Phương cho được? Đã không thể vãng sanh được thì bà một đời thủ tiết niệm Phật và làm đủ mọi chuyện hữu ích sẽ hoàn toàn trở thành phước báo! Hiện thời bà vẫn chưa có trí huệ, tuy thường tinh tấn niệm Phật, trong tâm vẫn chưa quyết định cầu sanh Tây Phương, đến đời sau trong lúc hưởng phước chắc chắn bị phước mê hoặc, sẽ tạo các ác nghiệp. Đã tạo ác nghiệp, chắc chắn phải đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ! Nỗi khổ lớn lao ấy đều là do đời này niệm Phật chẳng biết quyết định cầu sanh Tây Phương chiêu cảm. Quang thương xót bà, sợ bà mai sau có thể lâm vào tình huống ấy cho nên lập sẵn cách cho bà. Nếu bà chịu nghe theo lời tôi, sẽ chẳng do phước mà mắc họa.

 

Nên giao hết sạch [cho người khác]

Hiện thời tuy bà rất mạnh khỏe nhưng phải nghĩ mình sắp chết. Bây giờ cần mặc những thứ quần áo nào thì giữ lại để mặc, phàm những thứ y phục quý trọng như lượt, là, áo da v.v… đều chia cho cháu, cho dâu. Những thứ cài đầu, xuyến đeo tay, hoa tai, vàng, bạc, phỉ thúy v.v… đều dùng để cứu giúp dân chúng bị tai nạn. Dùng công đức ấy để hồi hướng vãng sanh. Nếu trong tâm thấy biết nhỏ nhoi, chẳng thể đem cứu vớt tai nạn thì cũng nên chia cho con gái, cháu dâu, cháu gái v.v… Bên thân mình quyết chẳng được giữ lại những thứ khiến cho con người dấy lòng tham luyến ấy. Tất cả những khoản tiền dành dụm để phòng khi dưỡng già cũng nên giao hết cho con cháu, dù là khế ước, sổ sách ruộng đất v.v… đi nữa cũng nên giao hết sạch [cho người khác]. Trong tâm bà trừ chuyện niệm Phật, chẳng để cho có một chút ý niệm nào khác! Ngay cả cái thân của bà cũng chẳng tính toán sẵn sau khi chết đi sẽ nên an bài ra sao. Ngay cả với cháu, chắt cũng đều nên coi như người không quen biết, mặc kệ chúng nó hay dở ra sao, ta chỉ quan tâm niệm đức Phật của ta, nhất tâm mong chờ đức Phật đến tiếp dẫn ta vãng sanh Tây Phương.

 

Bà làm theo đúng như lời tôi nói, hết thảy mọi sự đều buông xuống hết, đến lúc lâm chung tự nhiên cảm được Phật đích thân rủ lòng tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Nếu vẫn cứ tham luyến hết thảy những vật tốt đẹp, tiền bạc, ruộng đất, nhà cửa, đồ cài đầu, quần áo và con cái, cháu chắt v.v… y như cũ thì vàn muôn phần chẳng thể vãng sanh Tây Phương được! Đã không sanh về Tây Phương được thì đời sau chắc chắn có si phước để hưởng, do hưởng phước sẽ tạo nghiệp, chắc chắn khi một hơi thở ra không hít vào được nữa sẽ đọa lạc trong tam đồ vì ác nghiệp ngăn lấp vậy! Tâm thức chẳng rõ, dẫu có một vị Phật sống đến cứu bà cũng chẳng cứu được, há chẳng đáng thương đáng xót lắm ư? Xin bà hãy tin lời tôi nói thì thật là may mắn không chi hơn được!


Pháp ngữ khai thị cho cư sĩ Phùng Hữu Thư lúc lâm chung

Nếu không có cái tâm chí thành tín nguyện niệm Phật sẽ không có cách gì hiển hiện được
Bệnh ông đã nặng, chỉ nên nhất tâm niệm Phật cầu Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Nếu tâm ấy chân thành, ắt sẽ được mãn nguyện. Còn đối với tất cả tội nghiệp, chớ nên lấy đó làm điều lo lắng. Vì nếu có thể cực lực chí tâm cầu sanh Tây Phương thì sẽ có thể cậy vào Từ lực của đức Phật để đới nghiệp vãng sanh. Ví như tảng đá to bỏ lên thuyền liền có thể từ bờ biển này sang được bờ kia. Cần biết rằng: Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, tự tánh công đức lực chẳng thể nghĩ bàn. Ba thứ chẳng thể nghĩ bàn ấy nếu không có cái tâm chí thành tín nguyện niệm Phật sẽ không có cách gì hiển hiện được. Có lòng chí thành cầu sanh Tây Phương thì ba thứ thần lực oai đức lớn lao chẳng thể nghĩ bàn ấy sẽ liền được hiển hiện. Như ngồi trên chiếc tàu thủy lớn lại được xuôi gió, chẳng lìa ý niệm trong hiện tại đây mà liền sanh về Tây Phương. Ông chỉ nên tin tưởng sâu xa lời tôi, tự nhiên ông sẽ được mãn nguyện. Nay tôi đặt pháp danh cho ông là Huệ Thoát, nghĩa là dùng trí huệ, tín nguyện niệm Phật liền được vãng sanh Tây Phương, thoát ly sanh tử vậy.

 

kcbnp225

Ảnh minh họa: Cụ già ngồi niệm Phật.

Đoạn đầu: Đã không thể vãng sanh được thì bà một đời thủ tiết niệm Phật và làm đủ mọi chuyện hữu ích sẽ hoàn toàn trở thành phước báo! Hiện thời bà vẫn chưa có trí huệ, tuy thường tinh tấn niệm Phật, trong tâm vẫn chưa quyết định cầu sanh Tây Phương, đến đời sau trong lúc hưởng phước chắc chắn bị phước mê hoặc, sẽ tạo các ác nghiệp. Đã tạo ác nghiệp, chắc chắn phải đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ!

"Hiện thời bà vẫn chưa có trí huệ", trí huệ mà các Ngài nhắc đến ở đây chắc chắn đó là Tín Nguyện. Đối với các cụ già, nếu chẳng được người sách tấn, chỉ bảo cặn kẻ thì phần nhiều tuy vẫn thường tinh tấn niệm Phật, nhưng tâm vẫn thường "chấp mê, bất ngộ", tức là một mặt niệm Phật một mặt vẫn là tình chấp thế gian [y như người thường], thậm chí càng về già thì tình chấp càng nặng. Một khi đã biết niệm Phật cầu vãng sanh, đã biết đến Pháp môn Tịnh Độ, mà lại không nắm bắt được cơ hội ngàn năm có một này thì thật là uổng phí biết bao! Không những vậy, tương lai trong những đời sau thật nguy hiểm, do si phước nhiều ắt sẽ tạo nhiều nghiệp lớn, rồi đọa sâu trong Tam đồ.

Đoạn tiếp: Trong tâm bà trừ chuyện niệm Phật, chẳng để cho có một chút ý niệm nào khác! Ngay cả cái thân của bà cũng chẳng tính toán sẵn sau khi chết đi sẽ nên an bài ra sao. Ngay cả với cháu, chắt cũng đều nên coi như người không quen biết, mặc kệ chúng nó hay dở ra sao, ta chỉ quan tâm niệm đức Phật của ta, nhất tâm mong chờ đức Phật đến tiếp dẫn ta vãng sanh Tây Phương.

Đến lúc này thì tất cả đều phải buông xuống, kể cả con cháu người thân, chỉ còn có niệm Phật, "nhất tâm mong chờ đức Phật đến tiếp dẫn". Chỗ "nhất tâm mong chờ đức Phật đến tiếp dẫn" ấy chính là Tín Nguyện. Đối với các cụ già, bậc lớn tuổi, hay người bệnh yếu... cần những lời khai thị chân thật, gần gủi, dễ hiểu, dễ lãnh hội. Chứ còn dùng những văn tự, hay trích đoạn Kinh giáo ra mà nói với họ thì chẳng hợp lẽ, họ chẳng thể hiểu hay tiếp nhận nổi. Dù cùng một ý nghĩa, nhưng cách truyền đạt phải khế lý khế cơ mới được. Ở đây chúng ta thấy các Ngài tuyệt chẳng nhắc gì tới Tín Nguyện niệm Phật cả, nhưng đọc kỹ rõ ràng ý nghĩa chỉ dạy là đúng trọng tâm này. Toàn thân phải buông xuống, tất cả đều phải buông xuống, một lòng niệm Phật đợi Phật đến tiếp dẫn. Rõ ràng là phải Tin chân thật, Nguyện thiết tha, chấp trì Phật hiệu [không buông bỏ thì làm sao nguyện thiết tha được, không Tin chắc [Phật đến rước] thì làm sao "một lòng đợi Phật đến rước" cho được]. Chứ còn như các cụ già hay những người bệnh yếu gần mất mà ta bảo phải tin cái này tin cái kia đi thì làm sao họ tiếp nhận nổi. Cứ bảo họ, toàn thân buông xuống hết, một lòng niệm Phật đợi Phật đến rước, đừng nghi, nhiêu đó nó bao hàm trọn vẹn hết cả [ý chỉ tông yếu] trong đó rồi.

Trong thư thứ hai, có lẽ vị này lúc còn khỏe mạnh đã có thời gian tu học lâu dài, ý nghĩa Kinh giáo đã nắm rõ [ít nhất cũng căn bản], nên cách chỉ dạy của Chư Tổ có vẻ 'Kinh giáo', văn tự nghĩa lý hơn. Những cụm từ như "cậy vào Từ lực của đức Phật để đới nghiệp vãng sanh", "Phật lực, Pháp lực, Tự tánh [làm Phật]", "Tín Nguyện niệm Phật"... được dùng tới. Chúng ta thấy, có ba thứ bất khả tư nghì: Phật lực, Pháp lực, Tự tánh [làm Phật]. Tất cả đều bất khả tư nghì, nhưng nếu thiếu Tín Nguyện để cảm thì cũng chẳng khởi tác dụng được. Giống như các Ngài hay nói, đã lên núi báu lại trở về tay không, chẳng được gì cả. Đã gặp Tịnh Độ, đã tu Tịnh Độ, đã niệm Phật cầu vãng sanh nhưng vẫn chẳng được Phật rước về. Sanh tử vẫn hoài tử sanh, y như cũ, chẳng thay đổi gì. Bao thỉ kiếp đến nay vẫn không thay đổi được. Thật là đáng tiếc lắm thay! Do đó chúng ta thấy tu học để một đời này thành tựu giải thoát thì điểm trọng yếu nó nằm ở đâu rồi đó.

Hơn nữa, tu hành chúng ta hay có cái tâm 'xin xỏ', 'van nài' [cho con được về Tây Phương], rất thiết tha, bi thương, lặp đi lặp lại... Sao chúng ta không dụng cái tâm [niệm Phật] này mà thử một lần "Tin" Phật đến tiếp dẫn ta đi, như thế có phải thù thắng hơn biết bao không? Có phải Như lý như pháp hơn biết bao không? Chúng ta thử đọc tận khắp Kinh điển, trước tác Tịnh Độ có chỗ nào nói phải 'xin Phật' thì Phật mới tiếp dẫn không? Hay là phải Tin cho sâu, Nguyện cho thiết, Hành cho chuyên, hay nói đúng theo văn tự thì phải "Chí tâm tin ưa", "Nguyện sanh cõi ta", mà niệm Phật. Cho nên tu hành cứ là phải y vào Kinh giáo của Phật, cùng các trước tác của Chư Tổ Sư mà hành trì, đừng có chạy theo thói quen, tình lý của thế gian mà áp dụng vào, coi chừng luống uổng một đời hành đạo vậy.

 

Văn Sao Tục Biên

Đại Sư Ấn Quang

Như Hòa chuyển ngữ

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.