Nếu Là Kẻ Tà Định Tụ Và Bất Định Tụ Thì Chẳng Thể Biết Rõ, Kiến Lập Nổi Cái Nhân Ấy

 

 

NPSTD7

Nếu Là Kẻ Tà Định Tụ Và Bất Định Tụ Thì Chẳng Thể Biết Rõ, Kiến Lập Nổi Cái Nhân Ấy

Chánh kinh:
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược dĩ sanh, nhược đương sanh, giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ, quyết định chứng ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, hà dĩ cố? Nhược Tà Định Tụ, cập Bất Định Tụ, bất năng liễu tri kiến lập bỉ nhân cố!

Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc đã sanh, hoặc sẽ sanh thì đều trụ trong Chánh Ðịnh Tụ, quyết định chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vì cớ sao? Nếu là kẻ Tà Định Tụ và Bất Định Tụ thì chẳng thể biết rõ, kiến lập nổi cái nhân ấy.
Giải:
Ðoạn này nói về quả thành tựu của nguyện hai mươi chín “trụ Chánh Định Tụ” và nguyện mười hai “quyết định thành Chánh Giác” của đức Di Ðà. Ðiều này chính là cốt lõi của toàn bộ bổn hoài của Phật Di Ðà, là thánh quả của vô lượng diệu hạnh, là trí lực phương tiện đạt đến mức cùng cực, là chỗ rốt ráo của đại nguyện độ sanh.
Kinh văn nhắc đến ba thứ: Chánh Định Tụ, Tà Định Tụ và Bất Định Tụ. “Tụ” (聚) có nghĩa là giống nhau, cùng loại. Ba Tụ này được các kinh luận của cả Tiểu Thừa lẫn Ðại Thừa để cập đến, nhưng nội dung sai khác rất nhiều:
* Tiểu Thừa như Câu Xá Luận nói: Các thánh giả từ Sơ Quả trở lên thuộc về Chánh Định Tụ, kẻ tạo nghiệp Ngũ Vô Gián thuộc về Tà Định Tụ, còn lại những kẻ khác chẳng thuộc về hai Tụ trên thì thuộc về Bất Định Tụ.
* Ðại Thừa lại hiểu Tam Tụ theo nhiều cách:
1. Trí Ðộ Luận, quyển bốn mươi lăm nói: “Một là Chánh Định Tụ: quyết định nhập Niết Bàn. Hai là Tà Định Tụ: quyết đọa ác đạo. Ba là Bất Định Tụ”.
2. Thích Ðại Diễn Luận, quyển một bảo: “Có ba thuyết:
- Một là trước khi đạt địa vị Thập Tín thì thuộc Tà Định Tụ do chẳng tin vào quả báo của nghiệp. Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) Thập Thánh (Thập Ðịa Bồ Tát) gọi là Chánh Định Tụ do thuộc địa vị Bất Thoái. Thập Tín gọi là Bất Định Tụ do hoặc tiến hoặc thoái chẳng quyết định” (Ðại Thừa Khởi Tín Luận có cùng quan điểm này).
- Trước khi đạt Thập Tín và ngay cả địa vị Thập Tín thuộc về Tà Định Tụ. Ðại Quả Giác là Chánh Định Tụ. Tam Hiền, Thập Thánh thuộc về Bất Định Tụ.
- Trước khi đạt đến Thập Tín là Tà Định Tụ, Thập Thánh là Chánh Định, Thập Tín và Tam Hiền thuộc về Bất Định Tụ”.
Các thuyết bất đồng, Tiểu Thừa coi từ Sơ Quả trở lên đã thuộc về Chánh Định, còn Ðại Thừa thì hoặc lấy việc quyết định nhập Niết Bàn, hoặc lấy địa vị từ Tam Hiền trở lên, hoặc địa vị từ Thập Ðịa trở lên, hoặc dùng địa vị Ðại Giác Phật quả làm tiêu chuẩn phán định Chánh Định Tụ.
Còn về việc kinh này nói chúng sanh cõi Cực Lạc đều trụ trong Chánh Định Tụ, ngài Tịnh Ảnh bảo: “Thuộc địa vị Bất Thoái nên gọi là Chánh Định. Chẳng cần biết là Tiểu Thừa hay Ðại Thừa, chúng sanh hễ cứ sanh về cõi kia sẽ đều trụ trong Chánh Định”.
Ngài Vọng Tây chia sẻ quan điểm này: “Hết thảy phàm phu thiện, ác, nương theo nguyện lực của Phật sanh về cõi kia đều ở vào địa vị Bất Thoái nên gọi là Chánh Định Tụ”.
Ngài Cảnh Hưng lại bảo: “Hễ sanh về Tịnh Ðộ thì chẳng luận là phàm hay thánh đều quyết định hướng đến Niết Bàn, quyết định hướng đến thiện hạnh, quyết định sanh trong đường lành, quyết định hành lục độ, quyết định được giải thoát, nên chỉ có Chánh Định Tụ, không còn có hai thứ kia”. Sách Hội Sớ cũng nghĩ như vậy.
Sách Bình Giải dựa theo ý tổ Thiện Ðạo giải thích như sau: “Như Thích Ma Ha Diễn Luận giảng Chánh Định Tụ là từ Tam Hiền, Thập Ðịa cho đến Phật quả; Chánh Định Tụ của Tịnh Tông cũng giống như vậy. Dẫu thị hiện có các địa vị Tam Hiền, Thập Thánh v.v… nhưng cuối cùng đều đạt đến Diệt Ðộ, chẳng qua là chỉ có một cõi Niết Bàn nhưng thị hiện sai biệt. Xét theo một pháp cú thì xét ngay nơi bổn tướng, Thập Ðịa, Tam Hiền chính là chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân”. 
Thuyết của sách Bình Giải đã hiển thị sâu xa ý kinh này vì chủ lẫn bạn trong Tịnh Ðộ đều là Ðại Thừa nên đều trụ trong Chánh Định Tụ. Dẫu thị hiện Thập Thánh, Tam Hiền v.v… nhưng về bản thể đều quyết định nhập Niết Bàn, ngay nơi tướng này chính là Pháp Thân. Do đó, tiếp ngay theo câu “giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ” (đều trụ trong Chánh Định Tụ), kinh nói ngay: “Quyết định chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Người vãng sanh đều thuộc trong Chánh Định Tụ, quyết định thành Phật, hiển thị sự bất khả tư nghị của Di Ðà đại nguyện đến mức độ cùng cực. (...)
Bản Ðường dịch lại chép: “Nhược đương sanh giả, giai tất cứu cánh Vô Thượng Bồ Đề, đáo Niết Bàn xứ. Hà dĩ cố? Nhược Tà Định Tụ cập Bất Định Tụ, bất năng liễu tri kiến lập bỉ nhân cố” (Nếu là kẻ sẽ sanh [về cõi Cực Lạc] sẽ đều rốt ráo Vô Thượng Bồ Ðề, đến chốn Niết Bàn, vì cớ sao? Nếu là Tà Định Tụ và Bất Định Tụ thì chẳng thể biết rõ, kiến lập nổi cái nhân ấy), ý nói: Người sẽ sanh về Cực Lạc đều phải kiến lập chánh nhân vãng sanh. Nương theo chánh nhân ấy ắt sẽ đạt cái quả vãng sanh, tất nhiên đạt tới địa vị Bổ Xứ thành Phật, nên kinh bảo: “Quyết định chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Kẻ Tà Định Tụ và Bất Định Tụ chẳng thể thật sự vì sanh tử phát tâm Bồ Ðề, dùng tín nguyện sâu xa trì danh hiệu Phật, nên “bất năng liễu tri kiến lập bỉ nhân cố” (chẳng thể biết rõ, kiến lập nổi cái nhân ấy). (...)

PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ 54656HBFD55

Ảnh minh họa: "Này Xá-lợi-phất, chúng sanh nghe được điều này, phải nên phát nguyện, nguyện sanh về nước kia. Tại sao thế? Vì được cùng ở một chỗ với các bậc thượng thiện nhơn. Này Xá-lợi-phất, không nên cho rằng có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước kia đâu."

(Kinh A Di Đà bằng tranh)

Chúng ta tiếp tục với Phẩm 22, Quyết Chứng Cực Quả. Trong đoạn Kinh văn này Phật nói rõ rằng "Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc đã sanh, hoặc sẽ sanh thì đều trụ trong Chánh Ðịnh Tụ". Trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là ba cái "tụ" này là gì? Trong phần chú giải tác giả đã dẫn giải ra các kiến giải khác nhau về các loại "tụ" này, chúng ta đọc để nắm rõ hơn. Còn nói chung cô đọng lại đó là sao? Chánh Định Tụ là không còn thoái chuyển nữa, tức Bất Thoái; Bất Định Tụ là còn 'lúc lên lúc xuống', lúc tiến lúc lùi, tức còn Thoái Chuyển [bất định]; còn Tà Định Tụ là chỉ có 'xuống' không có 'lên', tức từ mê vào mê, chẳng có lúc nào tỉnh, giác hay ngộ gì cả, hay nói cụ thể hơn là luôn bị xoay vần trong điên đảo bởi nghiệp thức, hay nói theo lối văn tự là hoàn toàn sống trong 'vọng tường, phân biệt, chấp trước' vậy. Rồi trong đây cũng phải phân biệt ra hai nhánh khác nhau, Tiểu thừa và Đại thừa. Tiểu thừa do chỉ chứng đắc đến Thánh [A La Hán] nên sẽ kiến giải theo nghĩa lý đó, tức từ Sơ Quả [Tu Đà Hoàn] đã được xem là Chánh Định Tụ, do sẽ chắc chắn chứng đắc [Thánh quả] trong tương lai. Còn với Đại thừa, mục tiêu là chứng đắc Phật quả, nên cũng phải xét theo tiêu chí ấy mà kiến giải cho phù hợp, theo đó thì rõ ràng Thuyết đầu tiên của Thích Đại Diễn Luận [và cả Đại Thừa Khởi Tín Luận] là khá chuẩn xác. Nhưng theo ngu ý thì cần sửa đổi lại chút là từ Thập Tín trở xuống là Bất Định Tụ [tức còn hoặc tiến hoặc thoái], cho đến đâu? Cho đến Địa Ngục luôn, mới thật sự là Tà Định Tụ, tức là cảnh giới chỉ chịu ngục tù, khổ đau, gọi là chỉ thọ nghiệp, trả nghiệp, còn các cảnh giới khác đều có khả năng tu tập nhiều ít để tiến lên, chứ chẳng phải vị nào cũng mê hết cả. Nên rõ ràng riêng cái này thì bên Tiểu thừa nói rất chuẩn xác vậy.

Trở lại với phần Kinh văn, thì Phật nói rằng "Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc đã sanh, hoặc sẽ sanh thì đều trụ trong Chánh Ðịnh Tụ". Điều này thì quá hiển nhiên rồi, chẳng có gì là khó hiểu cả, bởi chúng sanh được sanh về đó thì tất nhiên đã là Bất Thoái Chuyển, thế nên chắc chắn phải là Chánh Định Tụ rồi, đương nhiên là thế, tức cứ đi lên mãi cho đến khi thành Phật, và chắc chắn sẽ thành Phật. Chỉ có điều có chỗ này cần lưu tâm đây, đó là "hoặc đã sanh, hoặc sẽ sanh", "hoặc đã sanh" thì đương nhiên rồi, còn "hoặc sẽ sanh" là sao? Chẳng hạn chúng sanh trong Ngũ trược đây đang tu tập Tịnh Độ cầu vãng sanh thì liệu có được xem là "chánh định tụ" không? Câu trả lời là chắc chắn sẽ có một bộ phận hành giả có thể được gọi là như thế, đó là ai? Một là những vị đã đạt công phu Nhất tâm bất loạn, hai là những vị đã đạt "chí tâm tin ưa", chấm hết. Ngoài hai dạng này ra thì tất cả các dạng hành giả còn lại chỉ xếp vào hàng "Bất Định Tụ" mà thôi. Cho nên Phật nói các hạng "sẽ vãng sanh" bên trên ý là nói cho hai dạng này. Cho nên trong tu tập mọi điều phải minh bạch, rõ ràng, cụ thể, không có kiểu mập mờ, nhập nhằng được. Vậy mới biết ngõ mà tu, mà hành, biết cái gì đúng [để theo] cái gì trật [để tránh], chứ cái kiểu nhá nhem chập choạng thì thôi, thua, đến lúc cuối rồi cũng chập choạng như vậy chăng, chắc luôn.

Trong câu Kinh văn tiếp theo "Nếu là kẻ Tà Định Tụ và Bất Định Tụ thì chẳng thể biết rõ, kiến lập nổi cái nhân ấy", nguyên văn là "Nhược Tà Định Tụ, cập Bất Định Tụ, bất năng liễu tri kiến lập bỉ nhân cố", chỗ này nếu dịch chữ "và" thì có vẽ không chuẩn xác lắm, mà nên dịch là 'kể cả' thì sát nghĩa hơn, theo ngu ý vậy. Tức là nên dịch thành "Nếu là kẻ Tà Định Tụ, kể cả Bất Định Tụ...". Bởi chúng ta thấy rằng, với dạng "bất định tụ" thì vẫn có cơ hội thành tựu, hay chứng đắc về sau, do hiện thời họ còn 'lên xuống' nhưng biết đâu sau này qua quá trình huân tập họ dần tinh tiến lên trở thành "chánh định tụ" thì sao? Do hiện thời chỉ là trong quá trình tu tập thôi, nên chưa thể kết luận ngay được như thế, sẽ có một bộ phận tiến lên thành Chánh định tụ, một bộ phận không phân định được, là Bất định tụ, và một bộ phận cũng 'tiến xuống' thành Tà định tụ. Cho nên chữ "cập Bất Định Tụ" ý Phật muốn nói "và kể cả [một bộ phận] của Bất Định Tụ".

Tiếp theo, chỗ "chẳng thể biết rõ, kiến lập nổi cái nhân ấy" [bất năng liễu tri kiến lập bỉ nhân cố]. Vậy "cái nhân ấy" là gì? Niệm Phật! Bởi 'Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả' mà. Dạ nếu như thế thì cần gì phải dạng Chánh định tụ [mới kiến lập được], mà Bất định tụ hay Tà định tụ vẫn niệm được, vẫn kiến lập được như thường đấy thôi. Cho nên chúng ta phải hiểu rõ rằng, "cái nhân ấy" đó chính là Tín Nguyện đầy đủ, niệm Phật, hay nói khác đó là niệm Phật [trong Tín Nguyện tâm đầy đủ], như thế mới đúng là "cái nhân ấy", và phải dạng "chánh định tụ" mới làm được, và sẽ "quyết định chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề" [tức vãng sanh về cõi ấy], bất luận đang còn ở cõi Ngũ trược này. Cho nên câu nói 'Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả', thật ra cái 'nhân' đây thì đúng rồi nhưng không biết đến bao giờ mới trổ quả [vãng sanh], có thể là đời này, hay đời sau, hay đời sau nữa v.v..., chỉ khi nào chúng ta tin chắc điều ấy [câu nói ấy], không nghi, thì chắc chắn đời ấy sẽ thành tựu. Mà muốn được vậy thì chỉ có nương tựa giáo lý Kinh điển mà tu học là dễ đạt được nhất.

Qua đây chúng ta thấy việc học tập, dõi theo lời Phật lời Tổ Sư thấy các Ngài nói hầu như chẳng khác biệt gì, song phàm phu chúng ta thì lại thường chẳng chịu tin theo, cứ thích nghe theo người này người kia nói hơn, tâm lý chung là vậy, bởi vậy nên nhất định phải có một số bước trung gian nào đó để 'trung chuyển', truyền tải lại lời các Ngài nói đến mọi người vậy, như thế mới dễ tiếp nhận hơn. Vấn đề là 'bước trung chuyển' đó phải chuẩn xác, như lý như pháp, không được làm sai lệch đi văn tự, ngữ nghĩa của các Ngài, vậy mới được. 

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 22. Quyết Chứng Cực Quả (trích lục)
Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.