Người Chí Tâm Cầu Đạo Tinh Tấn Chẳng Ngơi Ắt Đều Thành Công

NPSTD7

 

Người Chí Tâm Cầu Đạo Tinh Tấn Chẳng Ngơi Ắt Đều Thành Công

Chánh kinh:
Thế Gian Tự Tại Vương Phật, tức vị Pháp Tạng nhi thuyết kinh ngôn: - Thí như đại hải nhất nhân đẩu lượng, kinh lịch kiếp số thượng khả cùng để. Nhân hữu chí tâm cầu đạo, tinh tấn bất chỉ, hội đương khắc quả, hà nguyện bất đắc. Nhữ tự tư duy, tu hà phương tiện, nhi năng thành tựu Phật sát trang nghiêm. Như sở tu hành, nhữ tự đương tri, thanh tịnh Phật quốc, nhữ ưng tự nhiếp.
Thế Gian Tự Tại Vương Phật liền vì Pháp Tạng mà nói kinh rằng: “Ví như có kẻ dùng đấu đong biển cả, trải qua bao kiếp số còn có thể đến tận đáy; người chí tâm cầu đạo tinh tấn chẳng ngơi ắt đều thành công, nguyện gì chẳng đạt được. Ông tự suy nghĩ tu phương tiện nào để thành tựu được cõi Phật trang nghiêm. Việc tu hành như thế ông nên tự biết, đối với việc thanh tịnh cõi Phật ông nên tự nhiếp”.
Giải:
Ðại ý của đoạn kinh này là Phật bảo Pháp Tạng rằng: Giả sử có một người dùng đấu để đong nước trong biển cả, dẫu trải qua thời kiếp lâu xa vẫn có thể thấy được tột cùng đáy biển; người dùng tâm chí thành cầu đạo, tinh tấn chẳng ngơi ắt sẽ đắc quả. Chữ Hội (會) được ngài Nghĩa Tịch giảng như sau: “Giai dã” (Hội nghĩa là đều), ngài Cảnh Hưng giảng là “diệc tất dã” (Hội có nghĩa là “ắt cũng”). Chữ Khắc (尅) giống chữ Khắc (剋), có nghĩa là đạt được, ắt hẳn, toại nguyện. Hơn nữa, có nguyện nào mà chẳng thể cầu đạt được.
Trong cuốn Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận, cư sĩ Bành Thiệu Thăng giảng: “Như ngài Pháp Tạng nói: ‘Con phát tâm Vô Thượng Chánh Giác’ thì nên biết rằng hết thảy các nguyện vương xuất sanh từ Vô Thượng Chánh Giác, hết thảy Tịnh Ðộ do đây được kiến lập. Vừa mới phát tâm, ngay lúc ấy Cực Lạc đã trang nghiêm trọn vẹn. Vì vậy, kinh nói: ‘Chí tâm cầu đạo, tinh tấn bất chỉ, hội đương khắc quả’ (Chí tâm cầu đạo, tinh tấn chẳng ngơi, ắt đều thành công, nguyện gì chẳng được). Vì sao thế? Vì hết thảy pháp chẳng ngoài tự tâm vậy”. Thuyết của ông Bành tỏ rõ bổn ý của đức Thế Tôn trong lời đáp. Ấy là vì phát khởi tâm chí thành nên tâm ấy ắt hàm chứa thánh quả. Vì nhân đã cùng tột quả hải nên hoa và quả đồng thời, chỉ cần tinh tấn thì nguyện gì chẳng thành; hết thảy nhân quả chẳng lìa tự tâm, chẳng có pháp nào ở ngoài tự tâm cả.

Trong đoạn tiếp theo, dùng liên tiếp ba chữ Tự: “Nhữ tự tư duy” (Ông tự suy nghĩ), rồi: “Nhữ tự đương tri” (Ông tự nên biết), và “nhữ ưng tự nhiếp” (ông nên tự nhiếp) là đức Thế Tôn chẳng đáp trực tiếp, lại phải dùng đến ba chữ Tự; thật là tấm lòng tha thiết, tâm ý sâu xa. Trong sách Hội Sớ, ngài Tuấn Ðế người Nhật đã giải thích như sau: “Câu ‘nhữ tự đương tri’ có ý giống như ba lượt ngăn không cho nói trong kinh Pháp Hoa: Nghĩa lý đó sâu xa quá, chẳng thể nói một cách dễ dàng được”.
Thuyết này rất hay, câu kinh: “Chỉ chỉ, bất tu thuyết” (Thôi thôi, chớ nên nói) của kinh Pháp Hoa có cùng ý nghĩa với câu kinh này. Lục Tổ bảo: “Mật tại nhữ biên” (Điều ẩn mật ở ngay nơi ngươi), bậc cổ Thiền đức nói: “Nhữ tự hội thủ hảo, ngã bất như nhữ” (Ông tự hiểu nhận lấy cái hay, tôi chẳng giống ông) cũng chính là ý nghĩa của ba chữ Tự trong đoạn kinh ở đây. Ngài Tuấn Ðế giảng tiếp rằng:
“Câu này có ba nghĩa:
1. Từ xưa, Pháp Tạng Bồ Tát đã gieo trồng [thiện căn] sâu dày, cao tài, dũng triết siêu dị hơn đời; đối với việc nghiêm tịnh Phật quốc, Ngài đã rõ thấu từ lâu. Do trí Phật không gì không biết nên Ngài dạy: ‘Ông biết như thế nào thì cứ tự thực hành như thế’. Điều này lại chứng minh rằng ngài Pháp Tạng là từ quả hướng nhân.
2. Nhiếp thủ Phật quốc đều tùy theo ý thích: Hoặc chọn lấy uế độ, hoặc cầu cõi thanh tịnh, hoặc dung nhiếp tam thừa, hoặc nguyện Nhất Thừa. Vì vậy, tùy lòng ưa thích của Bồ Tát mà chọn lấy, chẳng cần tuân theo ý chỉ của Như Lai.
3. Phàm là cõi Tịnh Ðộ, ắt có cõi là báo độ hay hóa độ. Pháp báo cao diệu, Bồ Tát chẳng có phần, chỉ nên thuận theo sức mình mà nhiếp thủ nên bảo: ‘Ông tự nên biết”.
“Chỉ nên thuận theo sức mình” như ngài Tuấn Đế vừa nói chính là điều Tịnh Tông dạy: Những việc thuộc về Pháp Thân vượt khỏi khả năng của Bồ Tát, phàm phu chẳng thể lãnh hội được nghĩa lý này. Trong đoạn kinh tiếp theo đây, Pháp Tạng Bồ Tát lại thỉnh cầu lần nữa.

 

tdtc4

Ảnh: Tượng Đại Thế Chí Bồ Tát

Đoạn đầu: Ðại ý của đoạn kinh này là Phật bảo Pháp Tạng rằng: Giả sử có một người dùng đấu để đong nước trong biển cả, dẫu trải qua thời kiếp lâu xa vẫn có thể thấy được tột cùng đáy biển; người dùng tâm chí thành cầu đạo, tinh tấn chẳng ngơi ắt sẽ đắc quả.

Dùng cái đấu [đong lúa] mà đi đong nước biển [xem được bao nhiêu]! Thế nhưng với con mắt, trí huệ của Như Lai thì "dẫu trải qua thời kiếp lâu xa vẫn có thể thấy được tột cùng đáy biển" [đong được hết]. Cho nên, "người dùng tâm chí thành cầu đạo, tinh tấn chẳng ngơi ắt sẽ đắc quả". Đây là lời chân thật! Phàm phu thì thấy khó nhọc chút đã thối lui, nhưng với định lực của các Ngài thì không việc gì là không thể. Đây là một trong những khác biệt lớn nhất của phàm phu và Thánh nhân. Từ định lực khác nhau sẽ phát sanh trí huệ khác nhau. Cho nên, trí huệ của phàm phu thế gian với bậc đã chứng Thánh quả là một trời một vực vậy. 

Đoạn tiếp: Vì vậy, kinh nói: ‘Chí tâm cầu đạo, tinh tấn bất chỉ, hội đương khắc quả’ (Chí tâm cầu đạo, tinh tấn chẳng ngơi, ắt đều thành công, nguyện gì chẳng được). Vì sao thế? Vì hết thảy pháp chẳng ngoài tự tâm vậy”. Thuyết của ông Bành tỏ rõ bổn ý của đức Thế Tôn trong lời đáp. Ấy là vì phát khởi tâm chí thành nên tâm ấy ắt hàm chứa thánh quả.

Thế nào là "Chí tâm cầu đạo"? "Chí tâm" là gì? "Chí tâm" chính là "nhất tâm". "Nhất tâm cầu đạo", không có dụng tâm thứ hai, tạp tâm. Điều này phàm phu liệu có làm được không? Thật sự, với hàng Thượng nhân thì có thể, chứ còn hàng phàm phu thấp kém, căn cơ chậm lụt thì rất khó, có thể nói là không thể. Nguyên do hoặc là không đủ định lực trí huệ, hoặc là không đủ kiên nhẫn [để có thể phát sanh định lực]. Cho nên, đối với phàm phu bình thường thì ...chịu thua, thật sự! Dĩ nhiên, cảnh giới đang xét ở đây là dành cho bậc Thượng Thượng, Đại Bồ tát, Đại trí huệ... và pháp tu ở đây là những pháp tu tự lực, trải qua nhiều kiếp số, chỉ dựa vào định lực của chính đương nhân mà thôi.

Trong Tịnh Độ tông chúng ta cũng thấy "chí tâm tin ưa", "nhất tâm cầu Tịnh Độ' vậy? Rõ ràng, với pháp môn này, chỉ yêu cầu "nhất tâm tin tưởng" mà thôi, và chỉ yêu cầu "trong một đời ngắn ngủi này thôi" chứ không phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp như trên kia. Dĩ nhiên nếu đạt công phu nhất tâm thì càng tốt, phẩm vị cao. Giữa "nhất tâm tin tưởng" với "nhất tâm bất loạn" sự khó dễ là một trời một vực. Một đằng là căn cơ nào cũng có thể thực hiện được [quan trọng là có thật sự chịu làm hay không thôi] còn một đằng phải là bậc Thượng mới may ra kham nổi, còn bậc trung hạ căn thì thôi... chịu thua. Nếu nói vậy thì sao cũng có nhiều người buông xuống, dụng công vài ba năm được Phật báo trước ngày giờ, tự tại vãng sanh khi vẫn còn trẻ khỏe bình thường, chẳng đau ốm gì cả. Lược xét ra cũng có khá nhiều trường hợp vãng sanh như vậy đấy, không phải ít. Nguyên do là họ đạt được nhất tâm bất loạn, hay chí ít cũng thành khối thành phiến gì đó chăng? Cũng có thể, nhưng trường hợp vậy là rất ít, có thể là trong một quãng thời gian một ngày một đêm nào đó, họ đã đạt được công phu "nhất tâm", cộng với Tín nguyện tròn đầy nên Phật cho phép về, vì đã hội đủ điều kiện. Chứ còn chỉ có Tín Nguyện đầy đủ, còn công phu thì 'chưa có gì' thì chắc chắn không được như thế đâu, phải đợi đến lúc mãn phần Phật mới đến rước [trừ chỉ vài trường hợp có chí nguyện quá tha thiết]. Nguyên nhân là do tâm ta và Tâm Phật chưa thật sự 'dung thông' nhau. Chứ còn đa phần được vãng sanh khi còn trẻ khỏe như thế, ấy là nhờ vào Tín nguyện đầy đủ, dụng công miên mật, đặc biệt ở chỗ tâm địa không còn 'tham sân si', đã hoàn toàn điều phục được phiền não [điều phục chứ không phải đoạn], tâm tâm tương ưng, thì rất có thể sẽ được Phật báo trước ngày giờ, tự tại vãng sanh, khi đang còn trẻ khỏe, không đau bệnh gì [tức thọ mạng hãy còn nhiều]. Còn không nếu thấy mình căn cơ. hoàn cảnh không thể được như vậy thì cứ gầy dựng Tín nguyện đầy đủ, rồi tùy sức tùy lực dụng công hằng ngày không biếng trễ, giữ gìn như thế trọn đời, đến lúc cuối cũng chắc chắn được Phật lực từ bi tiếp dẫn. Đây là đường lối thông dụng phổ quát nhất cho hạng căn cơ 'tầm thường' phàm phu như đa phần chúng ta đây. Nên nhớ các Ngài dạy, "phải dùng Tín Nguyện sâu [đầy đủ] mà trì danh hiệu Phật" nhé. Lời Kinh ở đây đã dạy rằng "dùng đấu đong biển cả" còn được huống hồ với Pháp môn này Phật dạy "chỉ cần tinh tấn khó nhọc một đời ngắn ngủi này thôi"... Cho nên, điều quan trọng là "chí tâm cầu đạo chẳng ngơi", đừng bao giờ từ bỏ, cho dù có gặp phải cảnh ngộ ra sao, hãy giữ mãi đạo tâm đạo lực cho đến lúc cuối, "ắt đều thành công". Phàm phu thật sự hơn nhau chỉ ở điểm này, thành tựu hay không thật sự chỉ ở điểm này. 'Trường đồ truy tuấn mã' vậy.

Các phần còn lại chúng ta cùng đọc tham khảo, học tập.

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 5. Chí Tâm Tinh Tấn

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.