Người Lành Làm Lành Từ Vui Vào Vui, Từ Chỗ Sáng Vào Chỗ Sáng. Kẻ Ác Làm Ác Từ Khổ Vào Khổ, Từ Tối Vào Nơi Tối

NPSTD7

 

Người Lành Làm Lành Từ Vui Vào Vui, Từ Chỗ Sáng Vào Chỗ Sáng. Kẻ Ác Làm Ác Từ Khổ Vào Khổ, Từ Tối Vào Nơi Tối

Chánh Kinh:

Thiên địa chi gian, ngũ đạo phân minh, thiện ác báo ứng, họa phước tương thừa, thân tự đương chi, vô thùy đại giả. Thiện nhân hành thiện, tùng lạc nhập lạc, tùng minh nhập minh. Ác nhân hành ác, tùng khổ nhập khổ, tùng minh nhập minh. Thùy năng tri giả, độc Phật tri nhĩ. Giáo ngữ khai thị, tín hành giả thiểu. Sanh tử bất hưu, ác đạo bất tuyệt. Như thị thế nhân, nan khả cụ tận. Cố hữu tự nhiên tam đồ, vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung. Thế thế lũy kiếp, vô hữu xuất kỳ, nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn!
Trong vòng trời đất, ngũ đạo phân minh, thiện ác báo ứng, họa phước tiếp nối, thân phải tự lãnh, chẳng ai thế cho. Người lành làm lành từ vui vào vui, từ chỗ sáng vào chỗ sáng. Kẻ ác làm ác từ khổ vào khổ, từ tối vào nơi tối. Ai biết được thế? Chỉ mình đức Phật biết nổi mà thôi! Dạy bảo khai thị, kẻ tin hành theo thì ít. Sanh tử chẳng ngơi, ác đạo chẳng dứt. Người đời như vậy khó thể hết sạch. Bởi vậy, tự nhiên có tam đồ, vô lượng khổ não, xoay vần trong đó đời đời kiếp kiếp, chẳng có thuở ra, khó được giải thoát, đau đớn chẳng thể nói nổi!

Giải:
Ðoạn này tổng kết năm sự ác, năm sự đau đớn, năm sự đốt.
Sách Hội Sớ giảng câu “thiên địa chi gian, ngũ đạo phân minh” (trong vòng trời đất, ngũ đạo phân minh) như sau: “Trời đất là sở y thế giới khí thế gian, [chữ thiên địa] chỉ chung cả ba cõi. Ngũ đạo là năng y hữu tình, chỉ chung cả đường lành lẫn nẻo ác. Nhân quả khổ vui ai cũng thường thấy nên bảo là phân minh”.
Ngài Nghĩa Tịch lại nói: “Trong vòng trời đất, sanh tử trong năm đường, nhân quả phân minh”, ý nói: Hễ có nhân ắt có quả. Nghiệp nhân như thế thì quả báo như thế, chẳng sai một mảy.

“Thiện ác báo ứng”: Sách Tiên Chú giảng chữ “báo ứng” như sau: “Có làm ắt có báo, có cảm ắt có ứng”. Như vậy, họa phước gặp phải trong hiện tại đều là báo ứng của túc nhân (nhân đã tạo trong đời trước).
Sách Hội Sớ nói: “Thiện ác thuộc về nhân; họa phước thuộc về quả. Nhân có thiện ác, quả cảm khổ vui. Bóng theo hình, tiếng vọng theo âm thanh, chẳng sai tơ tóc”. Bóng ắt theo hình, tiếng vọng vang ra từ âm thanh không sai mảy may; nghiệp nhân, quả báo cũng giống như thế.
“Họa phước tương thừa” (Họa phước tiếp nối): Sách Hội Sớ giảng chữ Thừa (承) là “nhận lãnh, tiếp nối”. Nghiệp nhân đời trước có thiện ác lẫn lộn nên đời sau thọ báo thì hoặc là trước vui sau khổ, hoặc là trước khổ sau vui. Khổ vui tiếp nối, họa phước thay phiên nhau nên bảo là “họa phước tương thừa”. Làm lành được phước, tạo ác mắc họa, đều là tự mình làm tự mình chịu nên bảo là “thân tự đương chi, vô thùy đại giả” (thân phải tự lãnh, chẳng ai thế cho).
Tổng hợp ý kiến của ngài Nghĩa Tịch và tác giả sách Hội Sớ, các câu từ chữ “thiện nhân hành thiện” (người lành làm lành) cho đến “tùng minh nhập minh” (從冥入冥: từ chỗ tối vào chỗ tối) được hiểu như sau:
Thiện nhân là người gieo cái nhân lành; đời sau sanh trong nhà tôn quý, thân hình đoan chánh, duyên cảnh hòa hợp, đẹp đẽ, thân tâm sướng vui; đó là “lạc” (樂). Người ấy lại còn sáng suốt, thông đạt, ưa điều thiện, thích bố thí; ấy là “minh” (明). Nếu người ấy lại làm nhiều thiện nghiệp, siêng tu phước huệ thì được sanh lên trời. Hay hơn nữa là niệm Phật cầu sanh Tây Phương v.v… Ấy là “tùng minh nhập minh” (從明入 明: từ chỗ sáng vào chỗ sáng).
Còn kẻ ác tạo ác nghiệp, gieo nhân ác, chịu quả ác. Vì thế, sanh trong nhà ty tiện, hình dung khô kháo, cả đói lẫn rách bức não thân tâm; ấy là khổ. Lại còn ngu muội, vô tri, chẳng tin chánh pháp, chẳng làm việc lành; ấy là “minh” (冥: tối tăm). Nếu còn làm nhiều ác nghiệp, chết sẽ đọa ác đạo, nên bảo: “Tùng khổ nhập khổ, tùng minh nhập minh” (從 苦入苦, 從冥入冥: Từ khổ vào khổ, từ tối vào nơi tối).
Tiếp đó, kinh dạy rõ lý nhân quả sanh tử trong sáu đường như thế rất u huyền; cả chín mươi lăm phái ngoại đạo chẳng thể biết được nổi, chỉ mình đức Thế Tôn ta biết được căn nguyên nên nói: “Độc Phật tri nhĩ” (Chỉ riêng đức Phật biết mà thôi). Phật rủ lòng giáo hóa, mở bày sự chân thật, nhưng chúng sanh ngu si, chẳng tin theo, chẳng hành theo.
Bởi vậy, Phật nói: “Tín hành giả thiểu” (Kẻ tin hành theo thì ít). Do đó, thế gian “sanh tử bất hưu, ác đạo bất tuyệt” (sanh tử chẳng ngơi, ác đạo chẳng dứt). Người đời chẳng tin lời Phật dạy răn cứ làm ác không thôi.
Các câu tiếp đó như: “Cố hữu tự nhiên tam đồ…” (Bởi vậy, tự nhiên có tam đồ…) nghĩa đã quá rõ.

 

nlPd777

Ảnh minh họa: "Tin hành theo lời Phật dạy" [Tín thọ phụng hành]

Đoạn: Sách Hội Sớ nói: “Thiện ác thuộc về nhân; họa phước thuộc về quả. Nhân có thiện ác, quả cảm khổ vui. Bóng theo hình, tiếng vọng theo âm thanh, chẳng sai tơ tóc”. Bóng ắt theo hình, tiếng vọng vang ra từ âm thanh không sai mảy may; nghiệp nhân, quả báo cũng giống như thế.

Điều này người thế gian thì có người biết người không, có người tin sâu có người tin 'cạn', nhưng với hành giả Tịnh Độ chúng ta thì chắc ai ai cũng biết, ai ai cũng 'nằm lòng'. Thế nhưng trong cuộc sống phức tạp nơi ngũ trược này, đôi khi người tu hành chúng ta vẫn có thể phạm phải, khởi hoặc tạo nghiệp, nhiều khi mình không cố ý nhưng do vô tình hay do tập khi sâu nặng nhiều đời nhiều kiếp cố kết, cộng với nhân duyên xấu ác dẫy đầy, làm cho chúng ta tiếp tục tạo nghiệp mà chẳng hay! Điều này là có thật không? Chúng ta cứ chân thật mà kiểm đếm lại thân tâm mà xem, ví dụ mỗi cái nghiệp nơi ý [tham sân si] dễ gì hàng ngày chúng ta chẳng phạm phải ít nhiều, cho dù có cố gắng nhưng nhiều lúc nó cứ 'bật' ra, không kiềm chế được, dù chỉ là vi tế đi nữa, thì cũng đã là ý niệm [tạo nghiệp]. Vấn đề là đã là bậc tu hành cầu giải thoát, chúng ta phải sống hướng thượng mới được, cố gắng đoạn ác tu thiện, bởi Nhân và Quả như "bóng theo hình, tiếng vọng theo âm thanh". Với hành giả Tịnh Độ, cái quả nó trổ ra lại càng gấp rút nhanh chóng [thường ngay trong đời này], vì sao? Vì đó chính là Hoa báo hiện đời, quả nặng báo nhẹ [nhờ có tu tập]. Nếu không, cái quả báo thật sự chính là Hậu báo [nơi Tam đồ], rất đáng sợ, rất dài lâu.

Đoạn: Thiện nhân là người gieo cái nhân lành; đời sau sanh trong nhà tôn quý, thân hình đoan chánh, duyên cảnh hòa hợp, đẹp đẽ, thân tâm sướng vui; đó là “lạc” (). Người ấy lại còn sáng suốt, thông đạt, ưa điều thiện, thích bố thí; ấy là “minh” (). Nếu người ấy lại làm nhiều thiện nghiệp, siêng tu phước huệ thì được sanh lên trời. Hay hơn nữa là niệm Phật cầu sanh Tây Phương v.v… Ấy là “tùng minh nhập minh” (從明入 : từ chỗ sáng vào chỗ sáng).

Chúng ta, những hành giả Tịnh Độ, thì chỉ một lòng cầu sanh Tây Phương mà thôi, chẳng mong lên trời hay được trở lại nhân gian làm gì. Chư Phật, Chư Tổ cũng khuyên chúng ta như vậy, "một đời liễu thoát sanh tử, siêu phàm nhập thánh". Rõ ràng, đây là con đường "sáng" nhất trong các con đường sáng, về "chỗ sáng" nhất trong các chỗ sáng. Cho nên, chúng ta đang tu Tịnh Độ cầu sanh Cực Lạc tức là cũng đang hành theo lời Phật dạy, "y giáo phụng hành" vậy.

Vấn đề là, đã "y giáo phụng hành" thì phải làm cho trót, nghĩa là đã tu đã hành Tịnh Độ thì phải tu, phải hành cho đúng Tông chỉ tông yếu của Pháp môn này [từ kim khẩu Đức Phật thuyết ra], vậy thì mới thật sự là "y giáo phụng hành", nhất định thành tựu ngay một đời này. Việc này có quá khó khăn không [với hàng phàm phu số đông thời Mạt như chúng ta]?. Các Chư Tổ sư liễu giải rằng, "Tịnh Độ độ khắp cả ba căn Thượng - Trung - Hạ", "phàm thánh gồm thâu", "đới nghiệp vãng sanh"... cho nên chắc chắn không phải là quá khó [vượt tầm với] với ai cả! Điều quan trọng là 'đừng bao giờ từ bỏ', phải kiên nhẫn, kiên trì và kiên định [hành theo lời Phật dạy]. Ở đây, Phật dạy chúng ta rằng, hãy tin tưởng, dốc lòng niệm Phật mà cầu sanh về Cực Lạc đi [đừng tham đắm thế gian này nữa], như thế thì cuối đời [hay thọ mạng hết] Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn chúng ta về. Và Ngài cũng chỉ rõ rằng, niềm tin ở đây là phải "chí tâm tin ưa" mới được [để khỏi phải lúc này lúc khác]. Cho nên, trong tu học, nói gì nói cái Lý [tức Lời Phật dạy về Pháp môn] chúng ta cần nắm rõ, hiểu thấu thì sẽ rất tốt cho đường đạo của chúng ta. Giống như cái lý 1+1 =2 vậy, làm sao chúng ta có thể hoài nghi, không tin cho được.

Các đoạn Kinh văn khác chúng ta cùng học tập theo Chú giải của các Ngài, để được thêm lợi ích.

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 35. Trược Thế Ác Khổ

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.