Người Niệm Phật Bình Thời Có Lòng Tin Chân Thành, Nguyện Khẩn Thiết Thì Không Ai Chẳng Được Vãng Sanh

NPSTD7

 

Người Niệm Phật Bình Thời Có Lòng Tin Chân Thành, Nguyện Khẩn Thiết Thì Không Ai Chẳng Được Vãng Sanh

Nhìn thấu, buông bỏ [được sẽ dễ dàng tương ứng với Tịnh Độ]

Chuyện của Phước Tuấn theo như lời ông kể lúc còn sống và sau khi đã mất, nếu mọi điều đều thật thì chắc chắn là vãng sanh! Do lúc sống đã thấy thấu suốt cái vỏ thân xác này, điều này thuộc về sự lợi ích lớn nhất, vì nữ nhân thường hay lưu luyến huyễn chất, hằng ngày lo trang điểm. Đã không có ý niệm ấy, sẽ tự dễ dàng tương ứng với pháp môn Tịnh Độ. Lâm chung gầy còm và bị bệnh khổ chính là do nghiệp chướng nhiều kiếp. Do vì bà ta dốc lòng tu Tịnh nghiệp nên mới chuyển hậu báo nặng nề thành báo nhẹ trong hiện tại. Ông bảo: “Do tu trì tinh tấn đến nỗi thân thể ngày càng yếu ớt’; nói như vậy không hợp lẽ, lại còn mắc lỗi khiến cho kẻ tín tâm nông cạn nhân đó bèn thoái đọa.

 

May mắn lớn lao [mà chẳng hay]

Phải biết: Người niệm Phật quyết định tiêu trừ nghiệp chướng. Những người có nghiệp chướng hiện tiền đều là chuyển ác báo tam đồ trong tương lai thành bệnh khổ hiện tại để giải quyết cho hết. Kinh Kim Cang dạy người trì kinh Kim Cang do có nỗi nhục nhỏ là bị người khác khinh rẻ, liền diệt được nỗi khổ nhiều kiếp trong ác đạo. Như vậy Phước Tuấn khi sắp sanh về Tây Phương, do nỗi khổ nhỏ nhặt này sẽ giải quyết sạch các ác báo trong vô lượng kiếp đến nay, quả thật là may mắn lớn lao! Chớ nên học theo kẻ chẳng biết sự việc, bảo là “do tu trì nên thành bệnh, bị chết!”

 

[Nương] cậy Phật lực, đới nghiệp vãng sanh
Người niệm Phật bình thời có lòng tin chân thành, nguyện khẩn thiết thì không ai chẳng được vãng sanh, huống chi Phước Tuấn lâm chung chánh niệm rỡ ràng, hiện các tướng xá bái, đảnh lễ v.v… Mất rồi thân thể vẫn mềm mại, sạch sẽ, vẻ mặt như còn sống, há có nên vì công phu của bà ta còn ít ỏi mà nghi ngờ hay chăng? Đối với Di Đà nguyện vương, mười niệm còn được độ, huống chi bà ta tinh tấn tu trì đã hai ba năm, há còn ngờ ư? Trong đời có hạng người ý chí thấp hèn, tuy thường niệm Phật, nhưng chẳng cầu vãng sanh, chỉ mong cầu phước báo nhân thiên; hạng người như vậy dù có tu hành suốt đời cũng chỉ được hưởng si phước trong đời sau mà thôi! Người có chánh tín tự mình dùng tín nguyện cảm Phật, Phật do lòng từ bi nhiếp thọ, cảm ứng đạo giao, ắt có thể cậy vào Phật từ lực, đới nghiệp vãng sanh, cần gì phải hỏi người ấy có thấy Phật hay chăng rồi mới phán đoán được!

 

Tận hiếu [phải đúng cách]
Ngay như trước lúc lâm chung, nếu [người sắp mất] tự tắm rửa, thay áo thì rất hay! Nếu người ấy không thể thì trọn chớ nên tắm rửa thay áo sẵn, khiến cho người ấy đau đớn khó chịu đựng nổi đến nỗi mất chánh niệm. Ông còn tiếc rằng lúc ấy bà ta còn chưa mặc pháp y, chưa ngồi khoanh chân xếp bằng; không biết lúc ấy, tốt nhất chỉ nên đồng thanh niệm Phật, vàn muôn phần chẳng được bày vẽ phô trương (như tắm rửa, thay áo, bắt ngồi lên v.v…) Nếu phô trương, bày vẽ sẽ thành ra như đã rớt xuống giếng còn bị ném đá, hãy nhớ kỹ! Lệnh từ tuổi đã cao, nếu Quang không nói lên mối tệ này, về sau, ông do tấm lòng tận hiếu sẽ gây trở ngại cho sự vãng sanh của mẹ, khiến mẹ phải lưu chuyển trong sanh tử bao kiếp dài lâu, không thể thoát ra được!

 

[Sanh ra đời này thật đáng] chẳng sống thừa, chết phí 
Chúng ta chỉ nên giữ lấy cái thật, chớ chuộng cái danh, bài ký của ông khá hay, chẳng cần phải nhờ người viết văn để lưu truyền. Đấy đều là những chuyện hư huyễn, phù phiếm trong thế gian, chỉ nên chính mình cùng người nhà niệm Phật mong cùng sanh Tây Phương là được rồi. Trong khóa tụng sáng tối mỗi ngày, lúc hồi hướng Quang đều đọc kèm tên của Phước Tuấn, hồi hướng một thất để tận mối tình thầy trò. Hơn nữa, Phước Tuấn sanh tử phen này có thể nói là chẳng sống thừa chết phí, may mắn thay! 

 

ad11

Ảnh: "A Di Đà Phật cứu độ chúng sanh"

"Người có chánh tín tự mình dùng tín nguyện cảm Phật, Phật do lòng từ bi nhiếp thọ, cảm ứng đạo giao, ắt có thể cậy vào Phật từ lực, đới nghiệp vãng sanh". Đoạn này Chư Tổ viết có hay không quý vị? Thật lòng, đây có thể xem là đoạn Kinh văn cũng được, hay là đoạn 'kinh điển' của Tịnh Độ cũng chẳng ngoa! Thật vậy, rõ ràng chúng ta thấy, muốn được "cảm ứng đạo giao" ắt phải có từ hai bên. Lòng Đại từ đại bi của Phật thì luôn luôn sẳn có, không ngằn mé, không bến bờ, "Phật thương chúng sanh còn hơn cha mẹ thương con", luôn duỗi cánh tay chờ [đón] chúng ta trở về. Vấn đề là nằm ở vế bên kia, tức 'chúng ta' [chúng sanh], liệu có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha hay chăng? Nếu có đầy đủ, ắt có "cảm ứng đạo giao". Như đã từng nói, có "cảm" Phật, ắt có "ứng", tức là có được tất cả, được sắp đặt, hộ niệm, Phật tiếp dẫn về Tây, rồi lo luôn hậu sự, làm biểu Pháp đẹp cho đời cho người [những ca vãng sanh dạng này [tức là đã cảm Phật từ trước] thường rất đẹp, rất thù thắng]...

Thế cho nên, Chư Tổ sư luôn hết lòng hết dạ khuyên nhủ chúng ta bình thời hãy gầy dựng Tín nguyện Tín tâm đi [đừng đợi lâm chung hạn hẹp gấp gáp mới gầy dựng] Tín Nguyện cho thật chắc, thật sâu, thật thiết, gọi là như 'thành đồng vách sắt' vậy, chẳng ai lay chuyển được, rồi tinh tấn hành trì [thì mới giữ vững được Đạo tâm ấy, không thì thành ra nói suông, giả tín hư nguyện mất]. Giữ vững được như thế, đảm bảo lúc lâm chung chúng ta sẽ nở nụ cười [vì được thấy Phật đến rước].

Đại sư Ấn Quang sau khi vãng sanh người ta thấy trong liêu thất Ngài hằng ngày công phu có những gì? Một tượng A Di Đà Phật bằng gỗ, phía sau là một chữ Tử lớn [cùng bộ bàn ghế nhỏ]. Chỉ có vậy. Chữ Tử đó nghĩa là gì vậy? Dạ, đó chính là chữ Tử trong Sanh Tử [đại sự]. Chúng ta trong cõi đời này, Sanh thì ai cũng đã được sanh ra rồi [nên chẳng thể thay đổi được], thế nên Đại sự bây giờ chỉ còn là Tử mà thôi. Vâng, sau khi xả bỏ báu thân này, chúng ta đi về đâu? Đó mới là Đại sự trong cuộc đời mỗi chúng ta đây. Chư Tổ sư [biểu pháp] ngầm khuyên nhủ chúng ta đừng bao giờ sao nhãn đại sự này, được như thế thì Đạo tâm chúng ta mới luôn kiên cố vững chắc, bền lâu và quan trọng là luôn đúng hướng như thuở ban đầu. Điều này càng đặc biệt ứng hợp với những người phát tâm sớm, tu được lâu dài, tinh tấn, [và có chức sắc]. Bởi tu lâu, phước huệ bắt đầu tăng trưởng mạnh, nếu chẳng vì đại sự sanh tử này sẽ rất dễ bị sao nhãn, lôi cuốn [bởi danh lợi, địa vị, quyền thế...]. Vì sao thế? Vì những thứ này có sức cám giỗ rất mạnh, lại rất khó nhận biết, rồi [cho dù] nhận biết được thì đã là 'quá khó' rồi, 'rút ra' không được nữa, buông không nỗi nữa. Vì thế nên ma sự hay dựa vào những chỗ này [để phá hoại tâm tu cầu giải thoát]. Chúng ta cứ thử kiểm nghiệm một lượt mà xem!

Thế nên, lời Chư Tổ sư, biểu pháp của các Ngài, chúng ta phải ghi nhớ [canh cánh] trong lòng, chớ quên. Về Cực Lạc rồi thì cái gì chẳng có [đến hóa độ chúng sanh nữa], tất thảy đều thù thắng, viên mãn hơn không biết bao nhiêu lần, so với những thứ được gọi là 'tốt đẹp' ở cõi này. Chưa kể chẳng biết nếu mê mà 'đổi ra' thành si phước, cùng lắm hưởng đời này, đời sau, đến đời thứ ba thì Tam đồ vẫy gọi!

 

Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên

Trích lục Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.