Pháp Môn Tịnh Độ Lấy “Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha Niệm Phật, Quyết Định Cầu Sanh Tây Phương” Làm Tông Chỉ

NPSTD7

 

Pháp Môn Tịnh Độ Lấy “Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha Niệm Phật, Quyết Định Cầu Sanh Tây Phương” Làm Tông Chỉ

Thư nhận được đầy đủ. Kẻ ngu trong thế gian chẳng biết nhân quả, thấy làm lành mà mắc họa bèn bảo: “Chớ nên làm lành!” Thấy làm ác vẫn hưởng phước bèn nói: “Ác chớ nên kiêng!” Chẳng biết họa - phước xảy đến, có gần, có xa, sớm hay muộn không nhất định. Gần thì ai nấy đều thấy được, xa thì hoặc cách một đời hoặc cách mấy đời, chẳng phải là người có Túc Mạng Thông sẽ chẳng thể biết rõ.

 

Làm lành hay làm ác giống như gieo mạ

Nay lập ra một ví dụ cho dễ hiểu. Làm lành hay làm ác giống như gieo mạ. Người ấy [trong đời này] tuy lành nhưng trong đời trước hành vi chẳng thể nào không phạm lỗi, vì thế ngày nay không thể nào chẳng hứng chịu những điều trái nghịch. Cái thân đời này gọi là Báo Thân. Đời này làm nam hay nữ hoặc đẹp hoặc xấu, cũng như thọ - yểu, giàu - nghèo, trí - ngu, khỏe mạnh hay bệnh tật v.v… chính là quả báo chiêu cảm bởi những hành vi trong đời trước. Vì thế gọi cái thân này là Báo Thân, hàm ý cái thân ấy là quả báo của những hành vi trong đời trước; do cái nhân trong đời trước dẫn đến cái quả trong đời này.


Đời này tuy lành, nhưng do đời trước nghiệp nặng, sẽ chẳng thể hưởng được quả báo tốt lành ngay, mà trước hết phải gánh chịu ác báo từ đời trước. Như người năm ngoái không trồng lúa, năm nay tuy siêng năng cày cấy, nhưng trước khi thâu hoạch, cũng chẳng tránh khỏi không có lương thực. Không có lương thực chẳng phải vì năm nay siêng năng vất vả cho nên không có, mà năm nay không có lương thực là vì năm ngoái chẳng gieo trồng mà ra! Năm nay đã siêng năng cày cấy, gieo trồng thì sau khi thâu hoạch và năm sau sẽ có thóc lúa. Kẻ làm ác chưa bị mắc họa là vì phước thừa còn chưa hết. Như người năm ngoái siêng năng cày cấy gieo trồng, năm nay không cày cấy, gieo trồng, vẫn chẳng đến nỗi chết đói là vì năm ngoái hãy còn thừa lại. Ăn hết rồi, do năm nay không gieo trồng, sẽ không có cái để ăn nữa đâu! Cần biết rằng: Người lành gặp ác báo, nếu chẳng làm lành, ác báo ấy càng nặng nề hơn! Do làm lành nên ác báo sẽ theo đó giảm nhẹ đi. Người ác hưởng thiện báo, nếu chẳng làm ác, thiện quả ấy càng lớn hơn. Do làm ác, thiện báo cũng theo đó mà giảm nhẹ đi.

 

Chẳng lấy lời Phật dạy làm chỗ nương về...
Đối với cơm áo và những vật cần thiết cho cái thân, người đời đều biết để dành sẵn để khỏi phải lúng túng khi xảy ra chuyện; nhưng đối với chuyện liên quan đến thân tâm tánh mạng, chẳng những không biết sắp đặt sẵn, lại còn coi những kẻ chuẩn bị sẵn là si dại, tự mình mặc tình làm càn những chuyện dâm, giết, cho là mình có phước, có trí! Chẳng biết những kẻ mù, điếc, câm ngọng, tàn phế, không nơi nương tựa trong thế gian và trâu, ngựa, lợn, dê, hoặc phục dịch con người, hoặc [đem thân] trám đầy bụng miệng con người đều là hạng người tự cho là mình có phước có trí đã gặt lấy quả báo “tốt đẹp, chân thật” do thứ phước trí ấy! Người tu hành cần phải có tấm lòng quyết liệt, mặc cho kẻ khác chê cười, hủy báng, ta trọn chẳng nghi ngờ, bận tâm gì! Nếu nghe kẻ khác chê cười, hủy báng bèn ngã lòng thì hạng người ấy cũng là do thiện căn đời trước hời hợt nông cạn mà ra, chẳng lấy lời Phật dạy làm chỗ nương về, cứ lấy lời của ngu phu ngu phụ làm căn cứ. Vì thế sẽ luân hồi trong sanh tử dài lâu, vĩnh viễn chịu nỗi khổ trong tam đồ, muốn được hưởng thân trời - người còn khó, huống là đại lợi ích “liễu sanh tử, siêu phàm nhập thánh, cho đến thành Phật” ư?

 

Pháp môn Tịnh Độ lấy “lòng tin chân thật, nguyện thiết tha niệm Phật, quyết định cầu sanh Tây Phương” làm tông chỉ. Nếu người niệm Phật chẳng nguyện cầu sanh Tây Phương tức là đã trái nghịch lời Phật dạy. Ví như vương tử sống nhờ nước khác, chẳng tin chính mình là vương tử, chỉ muốn suốt ngày xin ăn, chỉ không đến nỗi chết đói là đã thỏa chí vừa ý rồi! Tri kiến kém hèn ấy chẳng khiến cho người khác thương xót ư? Bà Cao nhà họ Vương thuộc kinh điển làu làu, nhưng nói “chẳng dám vọng tưởng sanh Tây”, sao mà tâm chí cũng kém hèn cùng cực đến thế? Vị thầy bà ta thường ngày thân cận cũng thuộc hạng tu mù luyện đui! Nếu vị thầy ấy biết pháp môn Tịnh Độ, làm sao trưởng dưỡng ý tưởng ấy cho được?

 

Tin sâu lời Phật
Xin hãy nói với bà ta: “Nếu chẳng cầu sanh Tây Phương, chắc chắn chẳng chấp thuận cho bà ta quy y. Chịu cầu sanh Tây Phương thì sẽ bằng lòng cho bà ta quy y. Nay đặt pháp danh cho bà ta là Tông Tín, nghĩa là tin sâu lời Phật, chẳng dám trái nghịch sự tu trì Tịnh nghiệp của chính mình. Lại cần phải dạy lũ con cái, dâu, cháu đều cùng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, niệm Phật và niệm Quán Thế Âm để mong đời này nghiệp tiêu, phước tăng, lâm chung vãng sanh Tây Phương. Tự hành như thế và giáo hóa gia đình cùng với thân bằng, nhất định sẽ được vãng sanh như nguyện. Phật mở ra pháp môn Tịnh Độ dạy người cầu sanh Tây Phương, bà là hạng người gì mà dám chẳng coi lời Phật là đúng, mặc tình thỏa chí của mình ư? Vì thế cần phải lấy lời Phật dạy làm ‘tông chủ, tông bổn’ (những điều chánh yếu, căn bản cần phải đề cao, tôn sùng) mà tín phụng, chẳng dám có một niệm trái nghịch thì mới gọi là Tông Tín!”

 

Con gái bà ta là Hồ Vương Thị pháp danh là Tông Tịnh. Chồng, vợ, con cái trong thế gian không ai chẳng phải là do nghiệp duyên đời trước kết thành. Chồng bà ta mất sớm, con trai chưa cưới vợ đã chết yểu, con gái vừa lấy chồng đã thành góa bụa; nếu luận theo mặt tình cảm trong cõi đời thì chẳng tốt đẹp, nhưng nếu có thể nhờ đó mà biết tướng thế gian vô thường, chuyên chí tu trì thì những tình cảnh khổ sở ấy quả thật là hướng dẫn tốt lành khiến cho bà ta thoát khổ. Những kẻ phú quý, chồng - vợ - con cái một nhà đoàn tụ, tinh thần luôn hao phí, bận bịu trong chuyện sanh nở, cưới gả, dẫu muốn nhất tâm niệm Phật cũng chẳng thể như ý. Bà ta nghĩ được như vậy và dạy con gái nhất tâm niệm Phật thì chồng, con, rể bà ta đâm ra sẽ trở thành người giúp đỡ đạo nghiệp cho bà ta. Nếu bà ta một dạ vãng sanh thì chồng, con, rể cũng sẽ nhờ sự tu trì ấy mà vãng sanh Tây Phương. Đấy gọi là “vàng do luyện mà được ròng, dao do mài mà bén, chẳng trải một phen rét thấu xương, sao được hoa mai thơm ngát mũi”?

 

Vui theo mạng trời thì nghịch đâm ra thành thuận
Để thành tựu cho con người, trời có nghịch, có thuận. Nếu con người biết vui theo mạng trời thì nghịch đâm ra thành thuận. Nếu không, thuận cũng đâm ra trở thành nghịch, chỉ do con người có khéo dụng tâm hay không mà thôi! Lại nữa, hiện nay đang nhằm tình thế đại hoạn nạn, phàm đao binh, nước, lửa, ôn dịch, sâu rầy, châu chấu, hoặc mắc bệnh vì oán nghiệp thuốc men chẳng thể chữa trị được mà nếu chịu chí thành niệm Phật, niệm Quán Thế Âm, chắc chắn sẽ có thể gặp dữ hóa lành! (...)


Dạy con gái niệm Phật từ bé, sau này chắc chắn chẳng phát sanh những thứ đau khổ ấy. Tương lai lâm chung còn có thể vãng sanh Tây Phương. Nếu không, hễ ốm nghén liền niệm, hoặc trước khi sanh ba bốn bữa liền niệm, hoặc đến lúc sanh nở mới niệm đều được. Người đời thường ngăn trở thiện niệm của kẻ khác, như phụ nữ sanh sản, mọi người thường coi đó là chuyện đáng sợ. Chẳng những chính sản phụ không dám niệm, ngay đến mẹ chồng hoặc mẹ ruột thấy con dâu hoặc con gái sanh nở bèn trốn trước ra ngoài, hơn một tháng mới dám mò về. Những kẻ ấy đều là vì nghe lời ngoại đạo, chỉ biết cách thức cung kính lúc bình thường, chẳng biết tùy theo sự việc để quyền biến cho thích nghi, khiến cho nhiều nữ nhân trong thế gian chịu đau khổ cùng cực hoặc đến nỗi tử vong! Chẳng đáng buồn ư? Viết tạp nhạp như thế để mong lợi người.

VVXZC1155

Ảnh: Tượng Phật A Di Đà tại chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho, cao 18m đặt trên đế cao 6m.

Đoạn đầu: Chẳng biết họa - phước xảy đến, có gần, có xa, sớm hay muộn không nhất định. Gần thì ai nấy đều thấy được, xa thì hoặc cách một đời hoặc cách mấy đời, chẳng phải là người có Túc Mạng Thông sẽ chẳng thể biết rõ. Nay lập ra một ví dụ cho dễ hiểu. Làm lành hay làm ác giống như gieo mạ...

Trong mở đầu Cảm Ứng Thiên, "Thái Thượng viết: Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu..." [Họa phúc vốn không cửa, lòng người chiêu cảm thôi]. Tức Họa, Phúc vốn không có cửa [để tự ra, vào], chỉ do lòng người chiêu cảm [mà có hay không]. Người làm thiện sẽ được phúc, kẻ gieo ác sẽ gặt họa, vậy thôi. Tuy nhiên thời gian lâu mau hay lúc nào thì còn tùy thuộc duyên khởi nữa. Cho nên chẳng hạn người làm nhiều việc thiện thì chưa hẳn có quả báo lành ngay hay kẻ làm ác cũng chưa hẳn phải gặp họa liền là vậy, bởi nhân quả liên thông ba đời, quá khứ - hiện tại - vị lai. Nguyên lý chung là như vậy, nhưng thực tế thì nếu làm thật nhiều thì thường quả báo sẽ đến sớm thôi, ngay trong đời này luôn, thậm chí trong thời gian ngắn sẽ xảy ra luôn vậy. Đó là gì? Đó là do sự 'chiêu cảm' là quá mạnh, nên quả báo có thể nói đến cấp tốc, chẳng cần phải chờ đợi lâu. Chẳng hạn, kẻ làm ác một cách cùng cực, liên tục chẳng gián đoạn thì sẽ chiêu cảm cái họa đến ngay, thấy rõ, hay Trời Đất sẽ không dung tha cho kẻ ấy vậy, để giúp cho phản tỉnh, răn dạy người đời. Hay như, kẻ làm ác, gieo nhân xấu, bị quả báo xấu ác ập đến, chịu bao thống khổ, dày vò, nay biết hồi đầu quay hướng, cải ác hành thiện, tu tâm dưỡng tánh, ra sức học Phật, tu trì, sám hối, thì sau một thời gian nghiệp tiêu chướng tận, phước huệ tăng trưởng, sẽ thấy kết quả hiển hiện trước mắt, chẳng phải đợi lâu, như hết bệnh, hết tai ương, chướng nạn... Những cái này chúng ta chứng kiến nhiều, không có gì lạ, cho nên trong giới tu hành chân thật thường tin tưởng chẳng nghi, chỉ có tà ma ngoại đạo hay tu tập không chân chính mới chẳng chịu tin hành mà thôi.

Đoạn tiếp: Đối với cơm áo và những vật cần thiết cho cái thân, người đời đều biết để dành sẵn để khỏi phải lúng túng khi xảy ra chuyện; nhưng đối với chuyện liên quan đến thân tâm tánh mạng, chẳng những không biết sắp đặt sẵn, lại còn coi những kẻ chuẩn bị sẵn là si dại, tự mình mặc tình làm càn những chuyện dâm, giết, cho là mình có phước, có trí!

Nhất là với hàng giới trẻ thời nay, việc 'tu nhân, tích đức' giống như một điều xa xỉ hay là 'yếm thế', 'mê tín' gì đó, thường hay bị chê bai, bạn bè chế giễu, còn dạng thích thể hiện, 'anh hùng hảo hán', hay dạng 'thích khoe chiến tích', 'quá khứ lẫy lừng' v.v... thì lại được tung hê lên thành anh hùng, thần tượng, hay thành trào lưu, số đông, lùa gà... để học tập, bắt chước theo. Thật sự không thể hiểu nổi, không phải chỉ ở giới trẻ, mà cả người lớn luôn. Những suy nghĩ, tư tưởng lệch lạc, cái thiện lành bị chèn ép, cái xấu ác lại được thổi phồng lên ngôi, thành tiêu chuẩn kép trong cộng đồng, trên mạng xã hội... Những điều này có không? Có, rất nhiều nữa là khác! Đó là do đâu? Đơn giản đó là do thiếu nền tảng giáo dục của gia đình, đây là nguyên nhân chính, bố mẹ thiếu giáo dục rồi đến con cháu cũng nối tiếp theo như thế, cho nên nhiều khi cha mẹ còn cổ súy cho những hành vi sai quấy của con em mình, hay thiếu sự dạy dỗ, định hướng tích cực. Rồi trong trường học, học sinh cũng không nhận được sự giáo dục một cách đầy đủ, còn thiếu sót rất nhiều, những điều quan trọng chưa được quan tâm đúng mức. Thành ra nếu đứa trẻ lớn lên trong môi trường gia đình không được giáo dục tốt hay yếu kém về đạo đức thì hầu như bị cái xấu cái ác dễ dàng xâm lấn, còn cái thiện lành, cái nhân tâm con người lại rất khó để dung nạp được. Chỉ những đứa trẻ nào may mắn phước lành được sinh trong gia đình gia giáo hay ít ra có được những gương bố mẹ thiện lành, nhân đức thì mới dễ thành người lương thiện có đạo đức trong xã hội. Cho nên, nói gì nói, vấn đề giáo dục của gia đình vẫn là điều quan trọng nhất cho con em vậy.

Tiếp theo: Chẳng biết những kẻ mù, điếc, câm ngọng, tàn phế, không nơi nương tựa trong thế gian và trâu, ngựa, lợn, dê, hoặc phục dịch con người, hoặc [đem thân] trám đầy bụng miệng con người đều là hạng người tự cho là mình có phước có trí đã gặt lấy quả báo “tốt đẹp, chân thật” do thứ phước trí ấy!

Đây là nhân quả báo ứng mà người thế gian nếu không tu tập sẽ không biết được, cho nên cái nhân quả mà họ nếu có cảm nhận được cũng chỉ gói gọn trong một đời này thôi, như vậy thì chưa đầy đủ, toàn diện, chưa thể đủ sức cảnh tỉnh, lay động, và đặc biệt đối với các loài sinh vật, các cảnh giới khác, hữu hình và vô hình họ chưa thể phát khởi lòng từ lên được. Chỉ khi nào hiểu rõ đạo lý luân hồi lục đạo, các cảnh giới sanh tử xoay vòng... họ mới thật sự có cái nhìn khác, mới hiểu đâu là sự thật, còn không thì chỉ giới hạn trong phạm vi hạn hẹp một kiếp sống nhân gian này mà thôi, cho dù trình độ, tư duy, khoa học kỹ thuật có phát triển đến đâu nữa cũng vậy. Chẳng hạn, chúng ta thấy một con giun một con gián, nhiều khi đời trước chúng là người bình thường thậm chí có thể đã biết tu đạo nhưng do phạm phải một lỗi lầm nào đó mà đời sau phải ra như vậy, hay chúng ta thấy một con trâu, con ngựa, con chó, con mèo... rất có thể đời trước chúng là người đàng hoàng đấy, nhưng đã phạm phải những cái lỗi gì đó cũng không phải quá đáng gì đâu nhưng đời sau phải mang lông đội sừng mà trả như vậy, hay con cá con cua, con gà con lợn v.v... hầu như tất cả chúng đều là như vậy cả, thậm chí trong chúng có không ít vị đã có một quá khứ đời trước huy hoàng, 'xưng hùng xưng bá' hay một thời oanh liệt, dọc ngang nào đó chứ không vừa. Cho nên đời nay nếu chẳng biết tu đạo, lại chẳng có nền tảng giáo dục tốt nữa thì nguy hiểm vô cùng, tương lai đọa lạc là khó tránh khỏi vậy.

Đoạn tiếp theo: Người tu hành cần phải có tấm lòng quyết liệt, mặc cho kẻ khác chê cười, hủy báng, ta trọn chẳng nghi ngờ, bận tâm gì! Nếu nghe kẻ khác chê cười, hủy báng bèn ngã lòng thì hạng người ấy cũng là do thiện căn đời trước hời hợt nông cạn mà ra, chẳng lấy lời Phật dạy làm chỗ nương về, cứ lấy lời của ngu phu ngu phụ làm căn cứ.

Nhiều người cứ nói người tu hành nên thật hiền lành, càng hiền lành càng tốt, hiền như 'cục đất' vậy, như thế mới là người tu tập tốt, tức dạng ai nói gì cũng nghe theo, cũng vâng lời, không cải lại, không làm trái ý phật lòng người khác, gọi là 'hằng thuận chúng sanh', không nên chống trái, hay phản ứng, có thái độ, hành vi ngược lại. Như vậy liệu đúng chăng? Thật sự rằng, trong tu đạo, cần 'tùy duyên' nhưng phải 'bất biến' mới được, chứ còn 'tùy duyên' rồi 'vạn biến' luôn thì thôi... bỏ tu hồi nào không hay luôn! Chẳng hạn trong gia đình chưa có ai biết tu tập, mình phát tâm trước, ăn chay, niệm Phật, cầu vãng sanh, rồi giữ thời khóa sáng tối này kia, như thế sẽ tạo sự thay đổi thói quen, lề lối trong gia đạo ít nhiều, rồi sẽ gây những phản ứng này kia cho người này người nọ, nếu ta cứ 'hiền lành' chìu theo ý họ, làm giống như họ, như thế thì tu tập kiểu gì đây? Cho nên cái chỗ 'hiền lành' này với phàm phu rất dễ thành ra nhu nhược, yếu đuối, mà dạng như thế làm sao tu nổi giữa cõi đời ô trọc nhiễu nhương như thế này? Chúng ta không phải hung dữ, nhưng cũng không được yếu đuối, ủy mị, nhu nhược, hay dễ mềm lòng này kia, bởi người học đạo như bơi thuyền trên dòng nước ngược vậy, nếu không mạnh mẽ, kiên cường thì ắt sẽ bị dòng nước cuốn ngược lại thôi. Trong Kinh Phật có nói một từ đó là "kiên dõng", tức kiên cường, dõng mãnh, trong tu đạo vậy. Còn chúng ta thấy các vị tu đạo chân chính lâu năm cứ thấy gặp ai họ cũng dạ dạ vâng vâng, bái xá này kia không ngớt rồi nói họ sao mà hiền từ quá vậy, chẳng bao giờ thấy to tiếng hay làm phật ý ai bao giờ, chúng ta đã lầm, nhìn hình tướng họ bên ngoài như vậy thôi nhưng bên trong là cả một 'tảng đá khổng lồ' đấy, bất di bất dịch, chẳng gì lay chuyển được. Như vậy mới đáng gọi là người tu đạo chân thật đúng nghĩa vậy. Nói chung trong tu đạo, đừng có 'nhìn mặt bắt hình dong', bởi vẻ bề ngoài, hay cử chỉ ăn nói này kia chỉ là lớp áo, lớp vỏ hay 'lớp sơn' bên ngoài thôi, đừng quá coi trọng, quan trọng là bên trong đó là cái gì mới được.

Câu 'chẳng lấy lời Phật dạy làm chỗ nương về, cứ lấy lời của ngu phu ngu phụ làm căn cứ', cái này trong tu Tịnh Độ thì nhiều vô số kể. Thật sự, với Pháp môn này, xét đến tận cùng, 'lời Phật dạy' ở đây chính là Di Đà Bổn Nguyện, tức cần nương tựa Kinh giáo Bổn Nguyện, để làm chỗ phát khởi Tín Nguyện tâm chân thật mà cầu sanh về. Còn 'cứ lấy lời của ngu phu ngu phụ làm căn cứ', hay thậm chí lời của các giảng sư [nếu nói không đúng theo Kinh văn] làm căn cứ để tu học thì sẽ khó đạt được đại lợi ích “liễu sanh tử, siêu phàm nhập thánh, cho đến thành Phật” trong đời này vậy.

Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc và học tập.

 

Văn Sao Tam Biên, quyển 2

Thư trả lời cư sĩ Dương Tông Thận

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.