Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự
Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao. Lại nói: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, đắc Tam Ma Địa, tư vi đệ nhất” (nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Địa (tức tam-muội), ấy là bậc nhất). Nói “khiến cho tâm, miệng, tai đều được rõ ràng” chính là pháp tắc nhiếp trọn sáu căn vậy (Tâm là Ý Căn, miệng là Thiệt Căn). Tâm và miệng niệm hợp cùng tai nghe thì mắt, mũi quyết định chẳng đến nỗi rong ruổi theo bên ngoài, thân cũng chẳng đến nỗi láo xược, phóng túng. Người đời nay niệm Phật phần nhiều đều chẳng chịu nỗ lực nên không có hiệu quả gì.
Lại nữa, khi không niệm Phật, vọng tưởng tuy nhiều nhưng không cách nào biết được, chứ không phải là lúc không niệm thì không có vọng tưởng! Ví như đối với hư không trong nhà, dẫu mắt cực tốt cũng không thể thấy được bụi bặm. Nếu từ khe cửa sổ soi vào một tia nắng, sẽ thấy bụi bặm trong tia nắng chao lên đảo xuống không khi nào ngừng, khi ánh sáng chưa chiếu đến nơi, vẫn chẳng thấy có bụi bặm! Vì thế, biết rằng: Khi niệm Phật mà nhận biết có vọng tưởng thì đấy vẫn là cái hay của việc niệm Phật. Lúc không niệm Phật, hoàn toàn bị vùi lấp trong vọng tưởng cho nên không biết!
Nếu không có tín - nguyện, dẫu tâm không có vọng niệm thì vẫn chỉ là phước báo nhân thiên
Lại nữa, pháp Niệm Phật khẩn yếu nhất là có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha. Hễ có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt đến nhất tâm bất loạn vẫn có thể cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Nếu không có tín - nguyện, dẫu tâm không có vọng niệm thì vẫn chỉ là phước báo nhân thiên vì chẳng tương ứng với Phật. Do vậy, đương nhiên phải chú trọng nơi tín - nguyện cầu sanh Tây Phương. Thật sự có tín - nguyện, vọng sẽ tự hết. Nếu lúc bình thường có vọng tưởng quá mức, muốn đắc thần thông, được danh dự, được duyên pháp, đắc đạo v.v… hoàn toàn lấy vọng tưởng làm bản tâm của chính mình như vậy thì càng tinh tấn, dũng mãnh, những thứ vọng tưởng ấy càng nhiều càng lớn!
Oai thần công đức của A Di Đà Phật bằng với oai thần công đức của mười phương ba đời hết thảy chư Phật
Nếu chẳng giác chiếu để dứt trừ vĩnh viễn những vọng tưởng ấy thì sau này vẫn bị ma dựa phát cuồng, há nào phải chỉ có vọng tưởng mà thôi ư? Vì thế, phải miệt mài đoạn dứt những thứ vọng tưởng quá mức ấy. Thực hiện công khóa thì nên y theo chương trình của công khóa. Khi [đi kinh hành] niệm Phật xong trở về chỗ, niệm thêm [danh hiệu] hai vị Phật Thích Ca, Dược Sư cũng không ngại gì. Luận theo mặt lý thì lễ Phật trước khi chưa niệm chính là lễ Phật Thích Ca. Người đời phần nhiều xử sự theo tình cảm, không ai chẳng cầu tiêu tai, tăng tuổi thọ; vì thế, niệm thêm Phật Dược Sư. Thật ra, oai thần công đức của A Di Đà Phật bằng với oai thần công đức của mười phương ba đời hết thảy chư Phật, chứ không phải là niệm A Di Đà Phật chẳng thể tiêu tai, tăng tuổi thọ!
Nam Mô A Di Đà Phật
Đoạn đầu: "Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự."
Thật sự thì việc dụng công hành trì niệm Phât này khó thể nói được, mỗi nơi, mỗi đạo tràng, mỗi người mỗi nhà có cách hành trì riêng, chẳng thể quy kết về một khuôn mẫu nhất định nào cả. Cái điều có thể gọi là 'quy tắt chung' ấy chính là "cung kính, chí thành, từng câu từng chữ", điều này có thể áp dụng cho tất cả, tất cả nên cố gắng học tập. Nói chung là việc hành trì niệm Phật đừng nên chạy theo hình thức, mà nên chú trọng ở thực chất, cho "rõ ràng, rành mạch", nếu có thể 'tâm miệng khăng khít' thì càng hay, tức tâm nghe rõ tiếng mình niệm, đó chính là 'nhiếp tâm niệm Phật' vậy.
Đoạn tiếp theo: "Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao. Lại nói: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, đắc Tam Ma Địa, tư vi đệ nhất” (nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Địa (tức tam-muội), ấy là bậc nhất)".
Đại Thế Chí Bồ Tát dùng "nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Địa", trong sáu căn này thì nhĩ căn [tai nghe] là quan trọng nhất, nhiếp được căn này thì các căn kia cũng tự nhiếp theo. Nếu xét về mặt công đức lợi ích thì giữa việc niệm Phật nhiếp tâm và chẳng nhiếp tâm có sự khác biệt lớn, đây thuộc về công phu sâu cạn khác nhau, sẽ quyết định phẩm vị vãng sanh của hành giả. Dĩ nhiên là việc công phu sâu cạn này ngoài sự nổ lực cố gắng còn phụ thuộc vào thời gian tu tập hành trì dài ngắn của hành giả, và đặc biệt là khả năng tu Giới - Định - Huệ của hành giả ra sao nữa. Ví dụ, một người dẫu tu tập niệm Phật đã lâu, nhiều năm, nhưng tập khí phiền não vẫn chẳng giảm [nhiều khi còn tăng trưởng nữa], vẫn là 'sân si đầy mình', hay nói cách khác là sức 'chịu đựng' nhẫn nhục yếu kém thì thôi, làm sao mà 'nhiếp tâm niệm Phật' cho sâu cho lâu được. Hai cái này sẽ hổ trợ tích cực cho nhau, dụng công tích cực đúng cách sẽ giảm trừ phiền não và ngược lại, tu Giới định huệ tốt sẽ giúp việc công phu thêm sâu, đắc lực [mà nếu được vãng sanh phẩm vị sẽ ưu thắng hơn nhiều].
Đoạn: "Lại nữa, pháp Niệm Phật khẩn yếu nhất là có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha. Hễ có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt đến nhất tâm bất loạn vẫn có thể cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Nếu không có tín - nguyện, dẫu tâm không có vọng niệm thì vẫn chỉ là phước báo nhân thiên vì chẳng tương ứng với Phật."
Việc này thì chúng ta đã biết khá nhiều rồi, pháp môn này quan trọng nhất ở gầy dựng Tín Nguyện [sâu], rồi "dùng [cái tâm] Tín Nguyện sâu ấy trì danh hiệu Phật". Chứ chẳng phải chúng ta cố gắng dụng công cho đạt được điều này điều kia, hay cảnh giới này cảnh giới nọ, như thế là tuy niệm Phật nhưng đã dụng sai cái tâm đi rồi. Như vậy cái tâm [dùng để] niệm Phật đúng như pháp là gì? Dạ vâng, đó chính là cái tâm Tin sâu, Nguyện thiết cầu sanh mà niệm. Tức là không phải [dụng công] đạt được cái này hay cái kia thì mới đạt yêu cầu [vãng sanh], đó không phải là yêu cầu bắt buộc, hoàn toàn không, được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu thôi vậy. Điều kiện để thành tựu vãng sanh nó nằm ở chỗ khác, tức hành giả có Tín Nguyên đầy đủ hay không mà thôi, còn khả năng công phu chỉ quyết định phẩm vị. Hay nói cách khác, khả năng công phu cao thấp gì đó chỉ trở thành hữu dụng chân thật một khi có Tín Nguyện đầy đủ [để được vãng sanh cái đã], còn không thì như các Ngài nói "dẫu tâm không có vọng niệm thì vẫn chỉ là phước báo nhân thiên vì chẳng tương ứng với Phật", tức chỉ gieo viễn nhân cho những đời sau nào đó mà thôi.
Việc gầy dựng Tín Nguyện thì chúng ta đã cùng học tập nhiều rồi, nhưng sẽ vẫn phải học tập gầy dựng giữ gìn mãi không thôi, bởi đây chính là 'gót chân Asin' của Tịnh Độ Tông vậy. Như đã biết, có một số cách gầy dựng Tín tâm chân thật mà Kinh giáo, Chư Tổ Sư chỉ dạy. Trong đó pháp "Bổn Nguyện không hư dối" và pháp "nương Nguyện Lực của Phật" là các Ngài hay dùng đến nhất. Chúng ta chân thật học tập, kết hợp với chăm chỉ dụng công hành trì ắt sẽ có kết quả như ý. Pháp môn này, như các Ngài nói, không vượt quá 'tầm với' của bất kỳ hạng căn cơ nào cả, vấn đề là cần phải Y giáo phụng hành lời Phật lời Tổ chỉ dạy mới được, như thế ắt sẽ thành tựu giải thoát trong đời.
Các phần còn lại chúng ta cùng đọc và học tập.
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng
Thư trả lời sư Hựu Chân và cư sĩ Giác Tam (năm Dân Quốc 20 - 1931)
Đại Sư Ấn Quang