Phật Lực Từ Bi Khôn Kể Xiết, Pháp Môn Niệm Phật Siêu Phàm Tình

NPSTD7

 

Phật Lực Từ Bi Khôn Kể Xiết, Pháp Môn Niệm Phật Siêu Phàm Tình

Trương Liên Đệ, nữ, người làng Nguyên Châu, Tuyên Thành, tỉnh An Huy, cao lớn, khỏe mạnh, tánh tình mạnh bạo gan dạ. Xưa nay bà không hề tin nhân quả, suốt đời làm nghề giết heo. Số heo bị bà giết nhiều không kể xiết. Về sau bị nghiệp báo hiện tiền, bà mắc bệnh dữ, cả người sưng lên, trị hoài không hết. Vì muốn cầu cho lành bệnh nên bà Quy Y cửa Phật.

Sau tiết Thanh Minh năm 2004, bà thấy ba con Quỷ cầm xích sắt đến bắt bà, bị sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật trên thẻ bài mà bà đang đeo phóng quang cản lại. Sau đó, bà dần dần niệm Phật.

Trong làng có một cư sĩ Tịnh Y thường khuyên bà niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ, bà cũng hứa qua nhưng chưa thâm nhập. Bà niệm Phật rất ít.

Tháng 6 năm nay bị bệnh nặng, bà thường thấy Tiên vong thân hữu hoặc đến cười khuyên hoặc đến trách mắng. Tình thế nguy cấp, cư sĩ Tịnh Y khéo hay hộ trì, khuyên bà niệm Phật nên các vong không đến gần được, bà mới có thể từng bước bình an vượt qua.

Ngày 26 tháng 6, chúng tôi đến niệm Phật cho bà. Buổi trưa trong khoảng thời gian chúng tôi nghỉ để thay phiên, bà Đệ thấy ở sân nhà có cả đống quỷ đen thùi lùi, áo đen, mặt đen, lớn có nhỏ có, nhiều không kể xiết. Họ cầm đủ loại khí cụ: cây móc chỉa ba bằng thép, da bảng to, cái khóa to bằng cái thau rửa mặt… Trong đó có một con quỷ lấy sợi xích xiền bà lại. làm bà thần thức hoảng sợ, co giò bỏ chạy rồi lên tiếng niệm A Di Đà Phật, cùng với mọi người đồng thanh hỗ trợ, đám quỷ kia không thể tiếp cận, chỉ chạy vòng vòng ngoài sân không thể vào nhà. Khoảng nửa giờ đồng hồ thì tan biến hết.

Khoảng 5 giờ sáng ngày 05 tháng 7, bà Đệ bệnh qua đời, sắc mặt bà xanh đen, miệng bà há to, chị bà cố hết sức khép miệng bà lại nhưng dù thế nào cũng không thể khép được.

Tám giờ rưỡi, chúng tôi đến khai thị trợ niệm. Chưa đầy hai giờ đồng hồ chúng tôi dỡ khăn ra xem thì thấy miệng bà đã khép lại, sắc mặt trở nên dễ nhìn. Do khí trời nóng bức, lại không có phương pháp phòng hộ, lại thêm sắc bà Đệ sưng phù, bụng to như cái trống, người nhà bà e để lâu cái xác sẽ xì nước thúi. Chúng tôi niệm Phật cho đến 1 giờ rưỡi chiều mới ra về. Những người thuê về để khiêng xác, thay áo đều sợ xác xì nước thúi lây bệnh nên đều bỏ đi hết. Người nhà phải xử lý. Xác bà Đệ vốn cứng đơ.

Con gái út bà nói:

- Mẹ ơi, mẹ đã đến nơi tốt đẹp rồi, xin hãy thả lỏng người ra chút con mới dễ mặc áo cho mẹ.

Vừa mới nói xong khoảng một hai phút sau, xác bà tức thì mềm ra. Hôm đó trời nóng 37 – 38 độ, lại thêm bà con đến viếng ở trước quan tài đốt giấy, trong nhà lại nấu nướng liên tục để đãi khách, vô cùng nóng bức khó chịu. Như thế trải qua một ngày một đêm, đến ngày thứ nhì không có mùi khác thường mà xác vẫn mềm mại. Con gái bà nói:

Xương cốt mềm như xương kẻ sơ sinh.

Cô lại nói:

- Nét mặt mẹ tôi lúc sanh tiền rất khó khăn, không bao giờ cười. Vậy mà giờ đây lại cười híp mắt, từ hòa đoan trang, sắt mặt hồng hào, đẹp hơn lúc còn sống. Trước khi đậy nắp quan tài, cha tôi còn cố kêu mọi người đến xem.

Khoảng nửa tháng sau, buổi tối cái ngày hồn về thăm nhà, khoảng 11 giờ khuya, đứa cháu nội bà Đệ thấy bầu trời sáng rực lạ thường, nhìn theo hướng ánh sáng nó thấy bà nội và các Bồ Tát. Các Bồ Tát thân sắc vàng, ngồi trang nghiêm, trước ngực có chữ Phật. Bà nội đứng cùng với một đàn heo, toàn thân màu trắng. Chắc chắn là do niệm Phật, nương nhờ Phật lực mà nghiệp được tiêu, oan được giải. Đàn heo bị giết cũng được siêu sanh Tịnh Độ, cho nên cùng đến báo tin.

Bà Trương Liên Đệ vãng sanh Tịnh Độ làm chấn động cả làng Liên Châu. Nhiều ngày qua mọi người bàn tán xôn xao. Bởi vì lúc sanh tiền bà gây thù chuốt oán với không ít người, có người đoán bà không được chết tốt. Thế nhưng bà lại cười híp mắt ra đi. Rất nhiều người thắc mắc, nếu Phật A Di Đà có thật thì người như bà Đệ thế này mà cũng được nhận ư?

Để cảm tạ ân đức cứu độ của Phật A Di Đà, hai người con gái của bà Đệ đến chùa chúng tôi cúng dường Trai tăng đáp tạ, đồng thời thay bà quyên cúng một đôi bông tai vàng, một chiếc nhẫn vàng vào việc xây dựng chùa hoằng nguyện. Người con gái lớn nói:

- Mẹ của con lúc sanh tiền phải nói là người ác, nghiệp sát rất nặng, thích lừa gạt người khác, niệm Phật rất ít. Nói bà ta muốn vãng sanh thì không đúng. Ý muốn sanh tồn của bà quá mãnh liệt. Mãi đến phút cuối, vừa khỏe một tí là hỏi việc nhà lung tung, dường như muốn sống đến một trăm năm. Chúng con khuyên không được. Trước khi chết chưa đầy một tháng, bà còn vác cái bụng to đùng đến cái rẫy của người ta bê về vài chục cân bí đao, đâu phải nhà chúng con không có bí đao. Nhưng mà đó là thói quen thích lấy đồ người khác của bà. Trước khi chết hai ngày còn đòi chúng con giết gà cho bà ăn. Người như mẹ của con nếu nói không thể vãng sanh Tây Phương thì con cũng chẳng lấy làm lạ tí nào, chẳng chọc họ rằng Phật Pháp không linh nghiệm, mà trái lại còn cho đó là lẽ đương nhiên. Giờ đây mẹ của con ra đi tốt như thế, quả là tấm lòng từ bi vô cùng vô tận của Đức Phật A Di Đà. Chúng con cũng cảm tạ Sư Phụ đã đến nhà khai thị niệm Phật cho bà, bằng không thì mẹ của con chỉ có một con đường xuống Địa Ngục. Chúng con sau này cũng phải niệm Phật, đồng thời khuyên cha bỏ nghề giết heo. Chúng con cũng có khả năng nuôi ông mà.

(Ngày 25 tháng 7 năm 2005, Pháp sư Thích Tịnh Tông ghi)

Lời bình:

Không tin nhân quả, thích sát sanh

Mắng người, dối, trộm, tánh chẳng lành

Những tưởng bị đày xuống Địa Ngục

Nào ngờ được Phật rước vãng sanh

Ma quỷ đến bắt uổng công sức

Đàn heo đã chết thảy siêu sanh

Phật lực từ bi khôn xiết kể

Pháp môn niệm Phật siêu phàm tình.

 

p2

 

Trích Một Trăm Truyện Niệm Phật Cảm Ứng

Pháp sư Huệ Tịnh - Pháp sư Tịnh Tông

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.