Phật Phải Ân Cần Khuyên Đi, Khuyên Lại, Khuyên Mình Phát Nguyện Đi!

NPSTD7

 

Phật Phải Ân Cần Khuyên Đi, Khuyên Lại, Khuyên Mình Phát Nguyện Đi!

Kinh văn (nói về ý nghĩa trùng khuyến – khuyên thêm một lần nữa!)

Hán: Xá Lợi Phất! Ngã kiến thị lợi cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng sinh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện sinh bỉ quốc độ.
Việt: Xá Lợi Phất ơi! Ta thấy lợi thế, cho nên nói thế, nếu chúng sinh nào nghe nói thế rồi, thì nên phát nguyện sinh sang nước kia.
Hai chữ “ngã kiến” (ta thấy) là chính mắt Phật thấy rõ ràng hết sức. Hai chữ “thị lợi” (lợi ích như thế) là cái lợi cho người tu được ra tắt khỏi cái đời ngũ trược, được sinh sống ở bốn nơi Tịnh Ðộ, được lên thẳng đến tận ngôi Bất Thoái cuối cùng, được rất nhiều công đức chẳng khá nghĩ bàn vậy.
Lại nữa, “cái lợi thế” là nói cái lợi tới giờ phút sắp chết mà tâm mình chẳng điên đảo (cái nghĩa này xác đáng lắm, khiến người nghe rùng mình ghê sợ, lạnh buốt tận xương!). Vì rằng cứ tự lực mình tu hành ở nơi uế trược này, khi tới lúc sắp chết, là lúc đến cái “cửa ải tử sinh” rất khó đủ lực mà đi qua được.
Chẳng nói làm gì những kẻ tu hành ngoan cố, có chút trí tuệ ngông cuồng, buồn tủi không có kết quả, nói ngay những người tu phép Thiền Tông đốn ngộ sâu xa, giữ gìn cẩn thận thực tế và tiềm tàng đích xác lắm, thế mà đến lúc ấy (lúc lâm chung), chỉ một tí Tập Khí bằng sợi tơ còn sót lại, chưa trừ được hết, nó cũng thừa sức mạnh lôi mình đi trụy lạc, chưa thoát khỏi được đâu! Cho nên đức Tổ Vĩnh Minh thiền sư mới bảo rằng:
“Có Thiền Tông, không Tịnh Ðộ, mười người tu, chín người rớt, ấm cảnh nếu thấy hiện ra, chỉ chớp mắt là theo nó!”
Nghe lời này thật là rùng mình, lạnh buốt trái tim!
Người tu được đạo quả thứ nhất Tiểu Thừa rồi mà phải đầu thai, lúc đẻ ra, thành người mê muội. Vị Bồ Tát cách thân ngũ ấm này sang thân khác thành người hôn mê. Lúc đó, nó có để cho mình cố gượng làm chủ tể mình đâu, mà còn lơ mơ cầu may ra thì được?
Vậy chỉ có người tu Tín, Nguyện, trì niệm danh hiệu Phật nhờ sức Phật khác giúp thêm cho sức Phật mình, mới thoát khỏi cái giờ phút lâm chung lâm nguy ấy, bởi vì nguyện lực từ bi của Phật A Di Ðà mạnh lắm, quyết định chẳng bỏ rơi mình hỏng mất đâu! Phật A Di Ðà cùng các vị thánh chúng hiện ra trước mắt mình, an ủi mình, dẫn đường cho mình, nên mình mới được tâm không điên đảo, mới được tự tại vãng sinh.
Mắt Phật Thích Ca thấy rõ chúng sinh tới giờ phút lâm chung (sắp chết) có cái khổ nhất là tâm điên đảo rối loạn, sở dĩ Ngài phải ân cần khuyên đi, khuyên lại,
khuyên mình phát nguyện đi là Ngài đặc biệt muốn vì mình mà bảo đảm cho mình cái việc hết khổ ấy, cốt ý Ngài muốn bảo mình rằng: Phải phát nguyện cầu sinh đi, vì nguyện có sức mạnh, nó dẫn mình đến được chỗ thực hành niệm Phật, để mình thoát được cái đau khổ nhất đời ấy (Lời nói thiết tha này, nên khắc xương, ghi dạ!)

 

bup sen1


Hỏi: Tâm mình đã tạo tác ra Phật, tâm mình đã là Phật thì sao không nói Phật của mình là rốt ráo mà lại cứ nói Phật của người khác hơn Phật của mình là nghĩa làm sao?
Thưa: Cái pháp môn Niệm Phật này hoàn toàn ở chỗ “tỏ ngộ được Phật khác tức là Phật mình”. Nếu kiêng nói đến Phật khác ấy là chưa diệt được tà kiến “thấy có kẻ khác” (tha kiến). Nếu lại chỉ tôn trọng có Phật mình thì lại thành tà kiến “thấy có mình” (ngã kiến). Cả hai đều là điên đảo (nghĩa này rất là thần diệu).
Lại nữa, bốn lợi ích của phép Tất Ðàn thì 3 lợi ích sau chẳng thể tự khởi lên được, nếu không có lợi ích thứ nhất khởi lên trước là lợi ích phát khởi cái tâm tin sâu và vui mừng (nghe câu này, kẻ có mầm trí tuệ lại không thấy rõ sao?)
Cái tâm tin và mừng ấy nếu chẳng phát khởi ra thời cái tâm sinh thiện, vui cầu cõi Tịnh với cái tâm phá ác chán bỏ cõi uế đều chẳng sinh ra được, huống chi là
cái tâm liễu ngộ vào tới lý Phật, thì sinh ra làm sao được?
Vậy, chỉ có “sự trì danh” là cầu được thấy Phật khác hiện ra rồi, mới tỏ ngộ được “lý trì danh” là thấy Phật mình hiện ra. Cho nên mình được thấy Phật A Di Ðà và các thánh chúng hiện ra, tức là Phật của tâm tính mình đã hiện ra. Mình được sinh sống ở quả đất kia, được thấy Phật, được nghe pháp, tức là nhờ đấy mình thành tựu được thân trí tuệ của mình, chứ chẳng phải bởi đâu mà mình được.
Pháp môn Niệm Phật này thâm diệu lắm, phá hết thảy mọi hý luận (lời bàn suông chơi), diệt hết thảy mọi ý kiến (tà kiến). Chỉ có những bậc đại sư như các Ngài Mã Minh, Long Thụ, Trí Giả, Vĩnh Minh v.v… mới triệt để gánh vác được nó đi mà thực hành tế độ.
Còn những người khác, là những người giàu trí tuệ thế gian, tài thông minh biện bác, thông cả Nho và Thiền, dùng hết sức suy nghĩ, càng suy nghĩ càng cách xa, chẳng bao giờ tới được. Những người này lại không bằng được mấy ông, mấy bà thật thà, ngu độn chịu khó niệm Phật kia. Người ta cứ ngấm ngầm thế mà cảm thông được trí tuệ Phật, ám hợp được đạo mầu (nghĩa này rất xác đáng!)
Một câu: “Ngã kiến thị lợi cố thuyết thử ngôn” (ta thấy lợi thế, cho nên nói thế) rõ ràng là mắt Phật thấy, tiếng Phật nói để ấn định cái sự thực có ấy, ai có thể trái lời Phật, chống lại Phật, mà chẳng thuận thiện theo vào?

 

Trích A Di Đà Kinh Yếu Giải

Ngẫu Ích Đại Sư

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.