Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, sanh ngã quốc giả, sở tu ẩm thực, y phục, chủng chủng cúng cụ, tùy ý tức chí, vô bất mãn nguyện. Thập phương chư Phật, ứng niệm thọ kỳ cúng dường. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, người sanh trong nước tôi, tất cả thức ăn, y phục, các thứ vật cúng, nghĩ tới liền có, không điều gì chẳng được mãn nguyện. Mười phương chư Phật ứng niệm nhận lấy sự cúng dường của người ấy. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện ba mươi bảy: Quần áo, thức ăn tự đến; nguyện ba mươi tám: Ứng niệm thọ cúng)
Giải:
Ðoạn này nói về nguyện ba mươi bảy: “Quần áo, thức ăn tự đến”. Chữ “ẩm thực, y phục” (thức ăn, y phục) trích trong bản Tống dịch, “chủng chủng cúng cụ” (các thứ vật cúng) trích từ bản Ðường dịch. Nguyện hai mươi ba trong bản Hán dịch được ghi như sau: “Ngã quốc chư Bồ Tát dục phạn thời, tắc thất bảo bát trung, sanh tự nhiên bách vị phạn thực tại tiền. Thực dĩ, bát giai tự nhiên khứ” (Các vị Bồ Tát trong nước ta lúc muốn ăn thì cơm trăm vị tự nhiên hóa sanh trong bát bằng bảy báu hiện ra trước mặt. Ăn xong, bát tự nhiên biến mất - Nguyện thứ hai mươi bốn trong bản Ngô dịch chép giống vậy). Nguyện thứ ba mươi tám trong bản Ngụy dịch lại chép như sau: “Quốc trung thiên nhân, dục đắc y phục, tùy niệm tức chí, như Phật sở tán ứng pháp diệu phục, tự nhiên tại thân. Hữu cầu tài, phùng, đảo, nhiễm, hoán trạc giả, bất thủ Chánh Giác” (Trời, người trong nước muốn được y phục, hễ nghĩ đến liền có, tự nhiên trên thân khoác áo đẹp đẽ đúng pháp như Phật khen ngợi. Nếu còn phải cắt, may, đập, nhuộm, giặt giũ thì chẳng lấy Chánh Giác). Bản hội tập này chọn lấy những nghĩa trọng yếu của năm bản dịch để tổng hợp thành nguyện này, đặt tên là nguyện “quần áo, thức ăn tự đến”.
Sách Hội Sớ chú giải lời nguyện của bản Ngụy dịch như sau: “Vì sao Phật lại phát ra lời nguyện này? Vì Ngài thấy trong các cõi, con người khổ sở muôn bề vì cái ăn cái mặc, bốn mùa chẳng được yên ổn, cả một đời nhọc nhằn tham cầu. Huống hồ cấy cây lúa xuống là vùi chết mấy ngàn sanh mạng, trong vạc đun vô lượng kén tằm, cứ thế mà chìm đắm mãi không biết đâu là bến bờ, chịu khổ vô cùng. Vì vậy, Phật nguyện rằng thánh chúng trong cõi Ngài cơm, áo, nhà cửa tùy ý hiện ra trước mặt. Áo mặc, cơm ăn đều là pháp để trợ đạo”.
“Chủng chủng cúng cụ” (Các thứ vật cúng) là hoa hương, tràng phan, lọng báu, chuỗi ngọc, đồ trải để nằm (ngọa cụ), thiên nhạc v.v… hết thảy vô lượng vô biên các thứ vật dùng để cúng dường thù thắng như vậy đều tùy ý hiện đến nhằm thỏa nguyện cúng dường như bản Ngô dịch chép: “Dục đắc tự nhiên vạn chủng chi vật, tức giai tại tiền, trì dụng cúng dường chư Phật” (Muốn được tự nhiên có muôn vật thì chúng đều hiện ra trước mặt để cầm đem cúng dường chư Phật) hoặc như bản Tống dịch chép: “Ngã dĩ thần lực linh thử cúng cụ tự chí tha phương chư Phật diện tiền, nhất nhất cúng dường” (Ta dùng thần lực khiến các vật cúng này tự nhiên đến trước chư Phật ở phương khác, cúng dường mỗi đức Phật). Vì vậy, hội bản ghi là: “Tùy ý tức chí, vô bất mãn nguyện” (Nghĩ tới liền có, không gì chẳng được mãn nguyện).
Tiếp đó là nguyện ba mươi tám: “Ứng niệm thọ cúng”. Bản Tống dịch ghi nguyện này như sau: “Sở hữu Bồ Tát phát đại đạo tâm, dục dĩ chân châu, anh lạc, bảo cái, tràng phan, y phục, ngọa cụ, ẩm thực, thang dược, hương, hoa, kỹ nhạc, thừa sự cúng dường tha phương thế giới, vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn nhi bất năng vãng. Ngã ư nhĩ thời, linh bỉ tha phương chư Phật Thế Tôn các thư thủ tý, chí ngã sát trung, thọ thị cúng dường, linh bỉ tốc đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Tất cả Bồ Tát phát đại đạo tâm muốn dùng chân châu, anh lạc, lọng báu, tràng phan, y phục, đồ trải nằm, thức ăn, thuốc men, hương hoa, âm nhạc để thừa sự, cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn trong thế giới phương khác mà chẳng qua được chỗ các Ngài thì ta ngay trong khi ấy khiến cho các đức Phật Thế Tôn đó đều duỗi cánh tay đến tận cõi ta, nhận lấy sự cúng dường ấy, khiến cho các Bồ Tát ấy mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Lời nguyện trong bản Tống dịch thật đã hiển thị sâu xa thần lực của Phật. Còn như bản Ngụy dịch ghi: “Nhất phát niệm khoảnh, cúng dường vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, nhi bất thất định ý” (Trong khoảng khởi lên một niệm, cúng dường vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn chư Phật Thế Tôn mà chẳng mất định ý) là nói về tự lực. Như vậy, nhân dân cõi Cực Lạc hoặc do Phật lực gia bị hoặc do tự lực viên mãn đều có thể tùy lòng nghĩ tưởng cúng dường khắp các đức Phật.
Câu kinh: “Thập phương chư Phật, ứng niệm thọ kỳ cúng dường” (Thập phương chư Phật ứng niệm nhận lấy sự cúng dường của người ấy) đã hiển thị sâu xa ý nghĩa Phật và chúng sanh bất nhị, cảm ứng đạo giao: Ý niệm cúng Phật vừa khởi lên, chư Phật đã nhận lấy rồi. Ðốn tu, đốn chứng, nhân quả đồng thời.
Ảnh: Tượng Phật Thích Ca trì bình khất thực cao nhất Việt Nam (11m) tại Thiền viện Phước Sơn, Long Thành, Đồng Nai.
Đoạn Kinh văn và chú giải này có hai Nguyện là "Quần áo, thức ăn tự đến" và "Ứng niệm thọ cúng". Chúng ta cùng đọc để thêm kiến thức, học tập.
Chúng sanh nơi cõi Phật thì thứ gì cũng có, chẳng thiếu thứ gì, đến như đạt Thần thông tự tại [lục thông], thân Kim cang na la diên 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, tâm vui như Lậu tận chẳng còn chút gì phiền não... còn có đầy đủ nữa, huống hồ những thứ như quần áo, thức ăn, vật phẩm cúng dường, v.v... tất cả đều tự tại tùy ý, muốn thứ gì có thứ đó. Ăn uống thì chỉ bằng ý tưởng ["thấy sắc ngửi hương, sắc lực tăng trưởng"]. Còn muốn cúng dường thì "Ứng niệm thọ cúng". Chỗ này mang nhiều nghĩa lý văn tự, chúng ta đọc các chú giải của các Ngài để nhận biết thêm. Còn muốn biết rõ nữa thì vâng, về đến đó đi, mọi thứ sẽ được rõ ràng, sẽ được thọ dụng đầy đủ [nhưng đừng vào Biên Địa nhé, phải chịu cảnh "không thể ra khỏi, nhà ở trên đất [hóa thổ]... không được thấy Phật, không được nghe Pháp" một thời gian khá dài lâu đấy, cho đến khi đoạn trừ hết vô minh nghi hoặc mới được ra].
So với chúng sanh cõi này thì đúng là một trời một vực, phải "tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ", thật là mệt mỏi ha! Nhiều khi việc 'cơm áo gạo tiền' chiếm gần hết thời lượng trong ngày của chúng ta, còn việc công phu tu tập phải tranh thủ, tu mót, trở thành thứ yếu. Cũng may là chúng ta đang nương nhờ vào Pháp môn "đặc biệt" này, với 'bất luận căn cơ cao thấp', 'bất luận công phu sâu cạn', 'nương Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh'. Chứ chúng ta mà tu các pháp Tự Lực như Thiền, Giáo, Luật... thì thôi rồi!
Tuy nhiên, cái gì cũng có cái giá của nó. Với hành giả Tịnh Độ chúng ta tốt nhất là trên tinh thần càng tu càng 'thu gọn' dần lại, đừng có 'mở rộng' dần ra thêm [các pháp thế gian], trừ một số trường hợp đặc thù nào đó thôi, vì lợi lạc chúng sanh, hay bắt gặp những nhân duyên thù thắng đặc biệt nào đó. Còn thì đa phần càng tu càng đi chuyên vào việc dụng công hành trì tu tập cầu giải thoát. Chư Tổ Sư thường nói "nặng với phần đạo thêm một phần thì nhẹ với phần đời thêm một phần" đó là vậy. Cố gắng "trọn hết bổn phận", còn lại thì dành toàn bộ thời gian, tâm ý cho "Tín Nguyện Niệm Phật, cầu sanh Tây Phương", lấy đó làm chí hướng sự nghiệp trong đời này. Hết một đời này được Phật rước về cõi ấy, thì tự nhiên thứ gì cũng có [chỉ có 'cái khổ' là không nghe không thấy chứ đừng nói có!]. Thật là vui sướng, tốt đẹp biết bao!
Một khi về được cõi ấy rồi thì tha hồ mà tu, muốn tu pháp gì thì tu. Ví dụ, muốn tăng trưởng phước duyên, thật sự chỉ trong... một niệm, cúng dường muôn ức Chư Phật. Hàng ngày đều như thế, phước duyên gì chẳng trọn vẹn, đầy đủ. Hơi sức đâu còn ở cõi này mà phải 'nhọc nhằn' gom góp từng chút 'phước duyên' chi cho mệt vậy! Nói chung Phật sự hữu duyên thì cũng nên làm, tận tâm tận sức mà làm, nhưng đừng cố gắng 'chạy đuổi' theo chúng hay bị chúng nó 'kéo đi' nhé [Kinh Phật gọi là "Vị tâm tẩu sử" - đừng bị cái tâm nó lôi cuốn đi]. Chúng ta thấy, Chư Phật trong Kinh giáo, Chư Tổ Sư trong các trước tác, đều cực lực 'vận động', khuyên dạy chúng ta hãy 'chuyên tu chuyên hành' đi, đừng tu tràn lan [các pháp Tự lực] lợi ích thì không phải không có, nhưng tổn hại thì quá nhiều, chẳng thể nói hết được [thường thì chúng ta chỉ nhìn thấy cái được, còn cái mất đi thì chẳng nhận ra]. Lợi, hại ở đây là gì? Cụ thể là so sánh khả năng 'đậu' và 'rớt' giữa hai cách tu đó có thể nói là chênh nhau không biết bao nhiêu lần mà nói. Thật sự là như thế! Cho nên, các vị giảng Sư, các vị chuyên hoằng truyền Tịnh Độ, hãy "từ bi" và "dũng cảm" mà khuyên mọi người nên "chuyên tu chánh hạnh" đi, các pháp [tự lực] chỉ là trợ duyên thôi, đừng bị cuốn theo nó. Chánh lúc nào cũng phải chính yếu [về thời lượng, công sức, tâm ý], Trợ phải ít hơn, thứ yếu, tùy duyên [không nhất thiết phải có]. Muốn vậy thì chính mình phải hành được thì mới nói được. Chúng ta "chỉ cần tinh tấn khó nhọc một đời ngắn ngủi, về sau được sanh về cõi Vô Lượng Thọ an vui vô cùng, vĩnh viễn dứt sạch sanh tử không còn khổ hoạn, thọ mạng ngàn vạn kiếp tự tại tùy ý. Nên phải tinh tấn cầu đạt, tâm nguyện không được nghi ngờ. Như còn chút nghi hoặc sẽ sanh về cung điện thất bảo ở biên địa của nước Cực lạc, chịu các tai ách trải qua năm trăm năm”. Đây là lời Kinh Phật thuyết mà chắc chúng ta đã đọc tụng nhiều lần rồi.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện (trích đăng lần 2)
Ngài Hoàng Niệm Tổ