Quang Minh Như Vậy Chiếu Khắp Hết Thảy Thế Giới Trong Mười Phương

NPSTD7

 

Quang Minh Như Vậy Chiếu Khắp Hết Thảy Thế Giới Trong Mười Phương

Chánh kinh:
Như thị quang minh, phổ chiếu thập phương nhất thiết thế giới. Kỳ hữu chúng sanh, ngộ tư quang giả, cấu diệt, thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn. Nhược tại tam đồ cực khổ chi xứ, kiến thử quang minh, giai đắc hưu tức, mạng chung giai đắc giải thoát. Nhược hữu chúng sanh văn kỳ quang minh oai thần, công đức, nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất đoạn, tùy ý sở nguyện, đắc sanh kỳ quốc.

Quang minh như vậy chiếu khắp hết thảy thế giới trong mười phương. Có chúng sanh nào gặp được quang minh này thì cấu diệt, thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn. Nếu kẻ đang ở trong chốn tam đồ cực khổ mà thấy được quang minh này thì đều được ngưng nghỉ [nỗi khổ], khi mạng chung đều được giải thoát. Nếu chúng sanh nào nghe công đức oai thần của quang minh ấy mà ngày đêm kể, nói, chí tâm chẳng ngớt thì thuận theo lòng mong sẽ được sanh về cõi ấy.
Giải:
Ðoạn này trình bày chủ đề thứ tư của phẩm này: Diệu dụng thù thắng của quang minh Phật Di Ðà. Ðây chính là kết quả của nguyện mười bốn “quang minh chiếu đến được an lạc”.
Câu “kỳ hữu chúng sanh ngộ tư quang giả” (có chúng sanh nào gặp được quang minh này) ngụ ý: Tuy Phật quang chiếu khắp mười phương vô biên vô ngại, nhưng do chúng sanh căn tánh bất đồng, căn kém, duyên hèn khác nào chậu úp xuống, dẫu ánh sáng mặt trời chiếu khắp vẫn không cách chi soi được lòng chậu, như người úp chậu lên đầu chẳng thấy được ánh sáng; vì thế mới có kẻ gặp được hay chẳng gặp được quang minh của Phật. Nếu là người có cơ duyên “ngộ tư quang giả” (gặp được quang minh) này ắt sẽ đạt được những lợi ích lớn lao như sau:
1. “Cấu diệt”: Bản Ngụy dịch ghi là “tam cấu tiêu diệt”, tam cấu chính là ba độc tham, sân, si.
2. “Thiện sanh” như Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận bảo: “Thiện căn là chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Hết thảy pháp lành đều sanh từ ba pháp ấy”. Trí Ðộ Luận, quyển ba mươi cũng chép: “Hết thảy thiện pháp đều từ ba thiện pháp mà sanh và tăng trưởng”.
Như vậy, cấu diệt thì thiện sanh. Bản Ngụy dịch chép là “thiện tâm sanh yên” (thiện tâm phát sanh). Thiện tâm là dùng hai pháp Tàm và Quý và ba căn vô tham, vô sân, vô si để làm tự tánh cho điều lành.
Dùng những điều ấy để cùng tương ứng khởi lên hết thảy tâm và Tâm Sở thì gọi là “thiện tâm”. Xét theo bổn nguyện Di Ðà, thiện tâm chính là tín tâm chân thật trong Tịnh Tông.
“Thân ý” chính là ba nghiệp thân, khẩu, ý. “Nhu nhuyễn” nghĩa là tâm nhu hòa, thuận theo đạo như kinh Pháp Hoa nói: “Chúng sanh ký tín phục, chất trực ý nhu nhuyễn” (Chúng sanh đã tin phục, ý chất trực nhu nhuyễn). Ấy là vì chúng sanh cõi này ương ngạnh khó giáo hóa nên một khi “thân ý nhu nhuyễn” thì mới dễ điều phục, giáo hóa.
Câu “mạng chung giai đắc giải thoát” (khi mạng chung đều được giải thoát) diễn tả ý “từ tâm tác thiện, vãng sang Cực Lạc”. Ta thấy: Chúng sanh cực khổ trong tam đồ nếu thấy được quang minh của Phật liền được dứt khổ, khi mạng chung sẽ vãng sanh. Bởi thế, nguyện lực và sức oai quang nhiếp thọ của Phật Di Ðà đều chẳng thể nghĩ bàn. Quán Kinh cũng chép: “Vô Lượng Thọ Phật hữu bát vạn tứ thiên tùy hình hảo, nhất nhất hảo trung, phục hữu bát vạn tứ thiên quang minh, nhất nhất quang minh biến chiếu thập phương thế giới niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả” (Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng, mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi một tùy hình hảo lại có tám vạn bốn ngàn quang minh; mỗi một quang minh chiếu chúng sanh niệm Phật trong khắp mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ). Sách Bát Châu Tán cũng ghi: “Bất vị dư duyên quang phổ chiếu, duy mịch niệm Phật vãng sanh nhân” (Chẳng vì các duyên khác mà chiếu khắp, chỉ vì kiếm người niệm Phật vãng sanh). Do vậy, người niệm Phật chân thật chính là người hữu duyên gặp được quang minh này. 
“Nhược hữu chúng sanh văn… nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất đoạn” (Nếu chúng sanh nghe nói… ngày đêm nói kể, chí tâm chẳng ngớt): Kẻ nghe nói đức tánh của quang minh của đức Phật bèn ngày đêm kể nói thì cũng đều “tùy ý sở nguyện, đắc sanh kỳ quốc” (thuận theo lòng mong sẽ được sanh về cõi ấy). Bản Ngô dịch ghi: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn A Di Đà Phật thanh, xưng dự quang minh. Triêu mộ thường xưng dự kỳ quang minh hảo, chí tâm bất đoạn tuyệt, tại tâm sở nguyện, vãng sanh A Di Đà Phật quốc” (Thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe tiếng A Di Ðà Phật, khen ngợi quang minh. Sáng tối thường khen ngợi quang minh ấy tốt đẹp, chí tâm chẳng đoạn tuyệt, trong tâm mong mỏi vãng sanh cõi A Di Ðà Phật).
Sách Hội Sớ nói: “Ngày đêm xưng nói quang minh của Phật Di Ðà chí tâm chẳng ngớt chính là cái nhân vãng sanh… Nhưng chí tâm tin ưa xưng niệm danh hiệu đức Phật ấy thì mới chính là nghĩa thật sự của ngày đêm nói kể”. Ý sách nói: Tuy “nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất đoạn” đúng là cái nhân để vãng sanh Tịnh Ðộ, nhưng Tín, Nguyện, Trì Danh mới chính là ý nghĩa thật sự của “nhật dạ xưng thuyết”. Vả lại, Tín, Nguyện, Trì Danh chính là chánh nhân vãng sanh nên ai nấy đều được vãng sanh cả. 

mtn11

Ảnh minh họa: "Tôi nghe như vầy. Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, nơi vườn của ông Cấp Cô Độc và cây của ông Kỳ Đà, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ Kheo tụ hội, đều là bậc đại A La Hán mà mọi người biết đến. Ðó là Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma ha Mục-kiền-liên, Ma-ha-Ca-Diếp, Ma-ha-Ca-chiên-diên, Ma-ha-Câu-hy-la, Ly-bà-đa,..."

(Kinh A Di Đà bằng tranh)

Chúng ta tiếp tục với phân đoạn Kinh văn tiếp theo trong phẩm 12 - Quang Minh Biến Chiếu: "Quang minh như vậy chiếu khắp hết thảy thế giới trong mười phương. Có chúng sanh nào gặp được quang minh này thì cấu diệt, thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn..."

Rằng quang minh của Phật chiếu khắp hết thảy mười phương pháp giới, bao trùm hết tất cả, không sót chỗ nào hết. Rằng trong khắp Pháp giới, chúng sanh nào gặp được quang minh này thì "cấu diệt, thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn", rồi "Nếu kẻ đang ở trong chốn tam đồ cực khổ mà thấy được quang minh này thì đều được ngưng nghỉ [nỗi khổ], khi mạng chung đều được giải thoát"... Đó là những lời Phật thuyết trong Kinh. Tuy nhiên vấn đề là không phải chúng sanh nào cũng có thể "gặp" được quang minh này, tức thấy được quang minh này. Quang minh của Phật bao trùm khắp pháp giới, cho nên mọi sự, mọi vật trong đó đều được soi chiếu cả, cho nên tất cả chúng sanh trong đó cũng vậy, tất cả đều được chiếu soi hết, ở mọi cảnh giới, vấn đề là có vị thì thấy được có vị thì không. Cho nên Phật mới nói là "có chúng sanh nào gặp được quang minh này" hay là "Nếu kẻ đang ở trong chốn tam đồ cực khổ mà thấy được quang minh này"... chứ không phải là chúng sanh nào cũng thấy được quang minh này, đây là chỗ Kinh văn nói rất rõ ràng như vậy. Vậy thì vì sao lại như vậy, rằng quang minh Phật trùm khắp nhưng sao lại có người thấy người không? Theo như các Ngài chú giải, đó là:

"Tuy Phật quang chiếu khắp mười phương vô biên vô ngại, nhưng do chúng sanh căn tánh bất đồng, căn kém, duyên hèn khác nào chậu úp xuống, dẫu ánh sáng mặt trời chiếu khắp vẫn không cách chi soi được lòng chậu, như người úp chậu lên đầu chẳng thấy được ánh sáng; vì thế mới có kẻ gặp được hay chẳng gặp được quang minh của Phật"

Các Ngài ví giống như ánh sáng mặt trời chiếu khắp quả đất này nhưng không phải ai ai cũng nhận được. Còn vấn đề quang minh của Phật chiếu khắp, nhưng do chúng sanh "căn kém, duyên hèn" nên không thấy được. Vậy thì ai là người đủ duyên phước nhận được? Ở đây Phật không nói rõ chỗ này, mà các Ngài cũng không giải thích. Tuy nhiên từ chỗ [nếu thấy được quang minh này] thì "cấu diệt, thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn", nên chúng ta được biết chẳng phải là do có được những điều này mới gặp được quang minh, mà là do gặp được quang minh thì sẽ có những điều này. Chẳng hạn, chẳng phải do đoạn trừ hết tham sân si [tức cấu diệt] mới được gặp quang minh này, mà do gặp được quang minh nên diệt trừ được tham sân si... Nói chung vấn đề gặp được quang minh hay không nó thuộc 'phạm trù' khác, không phụ thuộc vào cảnh giới hay nghiệp chướng hay các Pháp tự lực này kia [thành tựu tới đâu] mà phụ thuộc vào thiện căn, công đức hay gì đó. Cho nên mới có chuyện, có khi chúng sanh trong Tam đồ có thể thấy mà các cảnh giới cao hơn lại không thấy như người, chư Thiên... Thôi nói chung chúng ta không cần lạm bàn nhiều, với Pháp môn này cái gì biết rõ chính xác thì hãy nói, còn không thì thôi, đừng có cố công suy luận này kia mà thành khẩu nghiệp.

Có chỗ này chúng ta cũng lưu tâm chút, là giữa cái "thấy" và cái "nghe" nó rất khác biệt. Nếu chúng sanh trong tam đồ mà "thấy" được quang minh này thì được dừng khổ, rồi hết thọ mạng là được giải thoát ngay, tức liễu thoát sanh tử, vãng sanh Cực Lạc. Vậy còn những cảnh giới khác "thấy" quang minh này có được vậy không? Dạ chỉ chắc chắn được "cấu diệt, thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn", còn vãng sanh thì chưa biết, vì Kinh Phật chỉ nói vậy thì biết vậy, chúng ta không được thêm bớt. Rằng trong Tam đồ mà thấy được quang minh này thì chắc chắn vãng sanh, còn các cảnh giới khác thì không biết, nói rõ hơn là chưa chắc, chỉ có được nâng cao đạo tâm đạo lực mà thôi. Vì sao lại có sự khác biệt một cách 'lạ lùng' như vậy, ở cảnh giới thấp hơn, nghiệp chướng nặng hơn, nhưng lại thù thắng hơn [nếu bắt gặp quang minh này]? Bởi vậy chúng ta thấy với Pháp môn đặc biệt này đừng có đem những lý luận của các Pháp tự lực ra đây mà luận bàn, chúng sẽ trở nên 'trớt quớt' hết không có trúng một cái gì cả. Cho nên các Ngài nhắc nhở rất nhiều lần về vấn đề này rồi. Nói chung vấn đề tại sao lại có chuyện lạ lùng như thế thì các Ngài cũng không giải thích rõ, mà Kinh văn cũng không nói, chúng ta chỉ có thể ước đoán đó là do chúng sanh trong Tam đồ mặc dù đang chịu sự thống khổ của nghiệp lực nhưng họ lại không có những nghi tâm, dị tâm này kia phát sanh, nên một khi gặp được quang minh này thì phát sanh "chí tâm tin ưa" ngay, nên khi thọ mạng hết thì Phật sẽ đến lai nghinh tiếp dẫn, tức một khi thấy Phật đến thì họ sẽ niệm một niệm hay mười niệm rồi theo Phật về Tây. Còn chẳng hạn như cảnh giới người đây nhiều khi thấy rồi lại quên, phát sanh nghi ngờ này kia trở lại, hay là lại tham chấp vào cái thân này, chẳng muốn buông bỏ nó, tức không chịu về chẳng hạn, cho nên không được 'đơn giản' mà thù thắng như các vị ở các cảnh giới kia. Cho nên như cảnh giới người đây, nhiều khi cái trí nó lại làm hại cái thân, thà trí thì trí cho tới nơi luôn, còn không thì thôi, Phật nói sao thì biết vậy đi. Chẳng hạn Phật nói "nãi chí thập niệm" là Phật rước, song con người ta lại đâu dễ dàng mà 'chịu' như vậy, rồi dùng cái trí của mình mà biện luận, rằng ta phải thế này ta phải thế kia, đâu có mà dễ dàng như thế. Rồi cho rằng làm người sanh thiên còn phải tu năm giới, tu thập thiện viên mãn mới được sanh, còn cõi ấy thù thắng hơn bội phần không lẽ lại dễ dàng đến thế hay sao? Tuy nhiên họ đâu biết rằng, thật sự ra Phật chỉ cần có vậy [là đủ để vãng sanh], nhưng để tin được điều này lại chẳng phải chuyện dễ dàng, phải có thiện căn công đức nhân duyên tương đối nào đó, bởi nếu không thì sẽ như Phật nói "Nếu xa xưa không tu phước huệ, thì Chánh Pháp này chẳng thể nghe", rồi một khi có Tín tâm rồi đâu phải nghỉ khỏe đâu, họ càng ra sức hành trì dũng mãnh hơn nữa, bởi do tâm lực ấy thúc bách, không hành không được. Cho nên các Ngài nói Pháp môn vừa cực khó vừa cực dễ là vậy, nếu như Phật nói sao thì tin vậy, chẳng chút hoài nghi thì đảm bảo Phật rước sạch sẽ, chẳng sót một ai vậy. Cho nên càng phức tạp hóa vấn đề ra thì lại càng 'thê thảm' hơn, càng rớt nhiều hơn vậy.

Các phần còn lại chúng ta cùng đọc các chú giải để hiểu biết học tập thêm.

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 12. Quang Minh Biến Chiếu (trích lục)

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.