Được chánh niệm vãng sanh
Nhận được thư biết lệnh nghiêm đã qua đời vào ngày Hai Mươi Sáu tháng Mười Một (Thư báo tin buồn vẫn chưa gởi đến. Cũng không cần phải đọc thư báo tin buồn đã có thể biết rõ cụ có được sanh về Tây hay không). May là trước khi cụ mất, đã thiết tha dặn dò các ông hãy tuân theo những gì Văn Sao, Gia Ngôn Lục đã nói, nên cụ được chánh niệm vãng sanh. Tuy do túc căn hiển hiện trong đời này chiêu cảm mà cha ông [được sự vãng sanh tốt lành như thế], nhưng cũng là vì anh em trai, chị em gái của ông chẳng thuận theo phàm tình, tin sâu Phật pháp và tuân theo lời cha dạy mà ra! May mắn chi hơn? Nói chung, tấm lòng của kẻ làm con là mong cha mẹ sống mãi trên đời, nhưng tướng thế gian vốn thuộc sanh diệt chẳng trụ, há có thể còn mãi được ư?
Sốt sắng niệm Phật để linh hồn của cha ta được hưởng lợi ích thật sự!
Nay cụ đã mất rồi, chớ nên bi ai quá mức, hãy nên sốt sắng niệm Phật để linh hồn của cha ta được hưởng lợi ích thật sự! Nếu cụ chưa được vãng sanh thì cầu cho cụ được vãng sanh. Đã được vãng sanh, ắt sẽ tăng cao phẩm vị. Đừng thuận theo thói tục hèn kém, biến chuyện tang tóc thành dịp vui, bày vẽ mù quáng, phô trương hồ đồ, mắc tội với cha, với trời! Cha ông trước khi mất khiết tịnh, mất rồi vẫn khiết tịnh, điều ấy quả thật đã biểu thị thân tâm thanh tịnh. Kẻ có nghiệp lực thì chẳng những không thể khiết tịnh trong khi ấy, mà có kẻ còn tự ăn phân nhằm thể hiện tướng đọa lạc.
Tất cả sự hiếu trong thế gian chẳng thể nào sánh bằng!
Hết thảy mọi chuyện trong đời người đều có thể giả vờ, chỉ có những tướng được biểu hiện khi sắp chết và sau khi chết đều chẳng thể nào làm giả được! Con người sắp chết, vẻ mặt liền biến đổi, huống chi chết đã hai ngày rồi lại càng thêm vui vẻ, hiện vẻ mỉm cười, đấy chính là tướng biểu thị vãng sanh. Lại nữa, chết đã mấy ngày, toàn thân đã lạnh, trán vẫn còn hơi ấm, đấy cũng là tướng biểu thị vãng sanh. Do phàm phu khi chết, hơi nóng từ dưới dồn lên trên. Nếu đảnh môn lạnh đi sau cùng, ắt là trở về thánh đạo, liễu sanh thoát tử. Ông chẳng biết rõ, nhưng cứ dựa theo vẻ mặt [cha ông] sau khi mất và lúc lâm chung được mọi người trợ niệm, thành tựu tịnh tâm, ắt cụ được đức Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Cha ông đã như thế thì mẹ ông cũng phải nên như thế. Phận làm con hành được đạo giúp đỡ cha mẹ như thế khiến cho [cha mẹ] được siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử thì tất cả sự hiếu trong thế gian chẳng thể nào sánh bằng!
Khăng khắng giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận...
Thân ta chính là di thể của cha mẹ ta; giữ lấy di thể của cha mẹ, nào dám chẳng dè dặt, kinh sợ để mong đấng sanh thành khỏi bị hổ thẹn ư? Do vậy, cần phải khăng khắng giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ điều ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, chẳng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, yêu tiếc giấy chữ, ngũ cốc. Người làm được như vậy đáng gọi là thiện nhân, đáng gọi là hiếu tử, đáng gọi là tôn kính cha mẹ. Lại còn có thể y theo pháp môn Tịnh Độ tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì sống sẽ dự vào bậc thánh hiền, mất đi trở về nước Cực Lạc, may mắn chi hơn?
Hơn nữa, hiện thời thế đạo nhân tâm đã bại hoại đến cùng cực. Thiên tai, nhân họa giáng xuống bất ngờ. Họa hoạn xảy đến chẳng thể lường trước, trốn cũng không được, ngừa chẳng thể ngừa. Nếu có thể y theo những gì Văn Sao, Gia Ngôn Lục đã nói, chí thành niệm Phật và niệm Quán Thế Âm, ắt sẽ âm thầm được gia bị, hoặc chuyển biến thành không có tai nạn gì, hoặc chuyển nặng thành nhẹ, quyết chẳng đến nỗi phải chịu tai ương giống như người không niệm Phật! Cõi đời hiện nay chẳng giống như cõi đời mấy chục năm trước kia. Muốn chuyển hồi thế đạo nhân tâm, muốn cho con cái trong gia đình hiền thiện mà chẳng sốt sắng đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình (tức những đạo lý làm người như cha từ, con hiếu v.v…) thì trọn chẳng có hy vọng gì! Giáo dục trong gia đình, cần nhất phải chú trọng sao cho hai pháp nhân quả và báo ứng bổ trợ nhau, bổ sung cho nhau thì mới có lợi ích thật sự.
Đem nhân quả báo ứng và đạo làm người bàn giảng kỹ càng cho con cái từ thuở thơ ấu
Chớ nói “ông là một người xuất gia sao cứ miệt mài đem những chuyện này nói với người khác?” Bởi lẽ, trong cõi đời hiện thời, những học thuyết phế kinh điển, bỏ hiếu, phế luân thường, vứt bỏ hổ thẹn… khiến lòng người bị ngu muội cứ nối tiếp nhau dấy lên. Nếu chẳng đem nhân quả báo ứng và đạo làm người bàn giảng kỹ càng cho con cái từ thuở thơ ấu thì sau này muốn cho chúng nó chẳng bị những tà thuyết xoay chuyển sẽ khó lắm, hết sức khó! Thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm! [Nói như vậy có] nghĩa là “khéo dạy dỗ con cái sao cho chúng nó trở thành hiền thiện” [sao cho] phong thái này từ một làng, một ấp lan ra khắp thiên hạ. Tôi thường nói: “Dạy con là cái gốc để bình trị, nhưng dạy con gái lại càng quan trọng thiết yếu hơn! Vì nữ nhân có quyền hạn giúp chồng dạy con. Nếu con gái hiền thiện thì con rể và con cái chúng nó sẽ đều hiền thiện”. Do vậy, lại nói: “Quyền trị gia bình thiên hạ bọn nữ nhân chiếm quá nửa”, ấy chính là chân ngữ, thật ngữ. Muốn cho cửa nhà hưng thịnh, con cháu hiền thiện, hãy nên lấy lời tôi làm khuôn thước thì những điều mong cầu sẽ đều đạt được.
Không tốt gì bằng dạy người ta thọ trì Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, Văn Xương Âm Chất Văn
Lại nữa, đề xướng nhân quả báo ứng, không tốt gì bằng dạy người ta thọ trì Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, Văn Xương Âm Chất Văn, bởi những loại sách giảng về thiện - ác [người ta] vừa đọc liền hiểu rõ thì sẽ dễ được lợi ích. Bành Định Cầu từ nhỏ hằng ngày đọc tụng hai bộ sách này, tới khi đỗ Trạng Nguyên làm Thượng Thư, vẫn hằng ngày tụng đọc. Lúc rảnh rỗi bèn cung kính chép lại tặng cho người khác, ghi là Nguyên Tể Tất Độc Thư (sách phải đọc của Trạng Nguyên, Tể Tướng). Lời Bạt viết: “Không phải là đọc sách này có thể làm Trạng Nguyên, Tể Tướng, mà là Trạng Nguyên, Tể Tướng quyết chẳng thể không đọc sách này!” Đủ biết tầm quan trọng của hai bộ sách ấy! Trong khóa tụng sáng tối, lúc hồi hướng, Quang sẽ đọc pháp danh của cha ông để hồi hướng suốt một thất cho trọn hết tình nghĩa thầy trò. Những điều khác xin ông hãy đọc kỹ trong Văn Sao, Gia Ngôn Lục, ở đây không viết đầy đủ (Ngày Mười Ba tháng Mười Hai, viết dưới đèn).
Đoạn đầu: May là trước khi cụ mất, đã thiết tha dặn dò các ông hãy tuân theo những gì Văn Sao, Gia Ngôn Lục đã nói, nên cụ được chánh niệm vãng sanh. Tuy do túc căn hiển hiện trong đời này chiêu cảm mà cha ông [được sự vãng sanh tốt lành như thế], nhưng cũng là vì anh em trai, chị em gái của ông chẳng thuận theo phàm tình, tin sâu Phật pháp và tuân theo lời cha dạy mà ra!
Một trong những hình tướng tốt đẹp mà phổ biến nhất của hành nhân Tịnh Độ được vãng sanh đó chính là lúc lâm chung tỉnh táo, chánh niệm rõ ràng, rồi an tường ra đi [theo Phật về Tây]. Đấy là những biểu hiện chung, còn cụ thể thì tùy loại nhân duyên, tu tập khác nhau nên có những hình thái vãng sanh khác nhau, người thì cứ thế niệm Phật mà ra đi luôn, người thì khi Phật đến thì nói cho mọi người biết là Phật đã đến, rồi có thể dặn dò, khuyến tấn hay chào cáo biệt rồi ra đi... Nói chung có nhiều hình thái khác nhau, không ai giống ai, nhưng điểm chung đó là đầu óc tỉnh táo, an tường, câu Phật hiệu thông suốt và thấy được Phật khi còn sống, cái này thì có thể là họ nói ra để mọi người biết hoặc là không, cứ thấy Phật cùng Thánh chúng đến tiếp dẫn rồi niệm Phật theo Phật về luôn, hoặc giả có 'nán lại' một chút để 'trao đổi' với mọi người rồi mới ra đi thì Phật cũng chờ đợi thôi, chẳng có gì 'gấp gáp' ở đây cả, để giúp làm biểu Pháp thêm thù thắng, giúp cho mọi người thêm Tín tâm mà càng ra sức tu tập để cùng về, rằng 'trăm lần nghe không bằng một lần thấy' mà! Cũng có dạng cá biệt lâm chung chẳng thấy niệm Phật được gì cả, miệng lưỡi cứng đơ ra, nhưng không phải nhìn vậy mà cho rằng thần trí bên trong họ bị mê mờ không niệm được, đó là nhìn thân xác họ [bất động] vậy thôi chứ thần trí bên trong họ vẫn tỉnh táo sáng suốt và đang niệm Phật trong đó đấy. Điều quan trọng là họ đã cảm được với Phật lực từ trước rồi nên đến lúc cuối chắc chắn đầu óc họ không bị mê mờ hay bấn loạn bởi nghiệp lực và chắc chắn Phật cùng Thánh chúng sẽ xuất hiện để rước họ về. Họ sẽ thấy Phật cùng Thánh chúng đến trước khi xả bỏ báu thân này. Bởi vậy, dù thế nào đi nữa, niệm hay chẳng niệm được, họ vẫn quyết định được Phật rước vãng sanh. Còn cái thân xác phàm này thì đằng nào cũng phải xả bỏ nó đi rồi thì có thể bị thế này thế kia [gây bởi nghiệp lực] nhưng sẽ chẳng ảnh hưởng đến tâm trí họ. Tất cả đó là nhờ Phật lực gia bị, che chở, cường duyên nên mới được như vậy. Chứ còn không, chỉ tự lực bản thân thôi, thì với phàm phu chúng ta thì thân tâm đi liền với nhau 'như hình với bóng', rằng cái thân bệnh hoạn hay sứt mẻ, rã rời, tứ đại phân ly gì đó sẽ ảnh hưởng ngay đến tâm trí khiến gây đau đớn hành hạ bức bách không thể chịu nổi, rồi thậm chí có thể gây mê man hay bấn loạn luôn, đó là do cái thân xác nó đang bị nghiệp lực chi phối, rồi hành hạ đến cái tâm trí khiến cho đến cùng cực nên gây ra tình trạng như vậy. Cho nên nghiệp lực nó kinh khủng lắm, chẳng thể đùa được đâu, nhất là lúc cận tử nghiệp, hay thậm chí gần đến lúc đó nó đã 'ra tay' trước cho 'vài chiêu' gì đó rồi. Nhưng nói chung người ăn chay, giữ giới, niệm Phật cầu vãng sanh siêng năng cả đời không biếng trễ thì chắc cũng không đến nổi. Tuy nhiên, có một dạng cần phải 'đề cao cảnh giác' cao độ, đó là dạng niềm tin đặt không đúng chỗ, dạng này khá là nguy hiểm, lúc cuối hay bị những tai ương bất ngờ ập đến lúc nào không hay biết, dẫu cả đời ăn chay niệm Phật giữ giới tinh tấn đi nữa, nhưng niềm tin lại đặt không đúng chỗ, tức không tin vào Phật lực mà lại tin vào những 'thế lực' khác như tin rằng có người thân chuyên đi hộ niệm, hay tin rằng thường thân cận với các ban hộ niệm hay các bậc cao Tăng này kia, sẽ bảo vệ hộ niệm cho mình lúc cuối. Những kiểu tin tưởng như thế lại hay gặp những tai kiếp này kia khó lường được, có lẽ do bị chiêu cảm nghiệp lực thì phải! Cho nên thà rằng không biết thì không biết hết luôn, tức chẳng biết gì nhiều, cứ chuyên cần hành trì ăn chay giữ giới, niệm Phật cầu sanh, vậy mà hành mãi cho đến cuối đời lại rất dễ thành tựu, hoặc tự mình ra đi hoặc có ban hộ niệm trợ duyên cho, sẽ rất dễ thành tựu. Nhưng nói chung thời buổi hiện nay dạng này hầu như không còn mấy nữa, thời đất chật người đông, thông tin bùng nổ, thì không 'biết' cái này cũng 'biết' cái khác, không cậy vào cái này cũng cậy vào cái khác. Cho nên hãy cậy vào Phật từ lực là chắc ăn nhất, thế nên các Ngài hay nói hãy so sánh sức Phật với sức người, xem cái nào thù thắng hơn là vậy. Bởi thế, người mà 'ra tay' dẫu đại thiện tri thức, cao Tăng, hay thậm chí Thánh nhân đi nữa, cũng vẫn còn gặp trở ngại này kia [bởi nghiệp lực], còn một khi Phật lực 'ra tay' không lẽ không thành tựu, không thắng được nghiệp lực của chúng sanh hay sao? Cho nên Phật lực mà ra tay thì 'bách chiến bách thắng', trăm lần như một, không có ca nào 'sẩy' cả! Đó là sự thật! Cho nên Pháp môn gọi là 'vạn người tu vạn người về' chính là do chỗ này vậy.
Đó là nói về Pháp Tín Nguyện niệm Phật cầu vãng sanh, tức "dùng Tín Nguyện sâu trì danh hiệu Phật". Còn dạng nếu chẳng muốn gầy dựng Tín Nguyện, cứ chuyên cần niệm Phật cầu vãng sanh thôi thì sao? Liệu có cơ hội vãng sanh cao không? Dạ vâng, cái này thì các Ngài nói không thể ước đoán đảm bảo được, bởi cái này còn phụ thuộc nhiều vào 'số phận', tức xem nghiệp lực lúc cuối như thế nào đã, nếu mọi thứ 'suông sẻ tốt đẹp' thì cũng có cơ hội tốt, tức lâm chung có thể tự mình [cùng đồng tu trợ duyên] giữ được chánh niệm rõ ràng phân minh, tâm trí không bị mê mờ hay bức bách và đặc biệt là phải chí thành niệm [và được trợ niệm] liên tục đến lúc tắt hơi luôn thì cũng rất có khả năng được Phật đến rước. Điều quan trọng với Pháp này đó là phải chí thành giữ câu Phật hiệu đến cuối cùng luôn, không được lơ là hay gián đoạn, đặc biệt lúc cuối gần tắt hơi tất cả mọi người đều đồng thanh chí thành niệm Phật trợ duyên giúp cho họ giữ được chánh niệm liên tục cho đến niệm cuối cùng, rồi tiếp tục nữa trong nhiều giờ, một ngày một đêm chẳng hạn. Bởi với dạng này có khi được Phật rước lúc vừa tắt hơi, có khi lại sau nhiều tiếng không chừng. Lúc này nếu người trợ niệm có Tín tâm chân thật với Pháp môn nói lời khai thị hộ niệm cho thì khả năng thành tựu cũng không phải ít. Bởi lúc này thần thức đang còn trong thân xác chưa ra khỏi nên khai thị cho đúng như Pháp thì họ cũng dễ phát sanh Tín tâm chân thật để cảm ứng đạo giao cùng Phật lực, sẽ được Phật đến cứu, vì lúc này thân xác họ đang trong giai đoạn 'tứ đại phân ly' nên tâm trí họ đang bị đau đớn bức bách cùng cực nên họ rất có thể để đạt được "chí tâm tin ưa". Quan trọng là phải khai thị cho đúng pháp, và quan trọng hơn nữa là chính người hộ niệm phải có Tín tâm chân thật thì mới khai thị đúng như Pháp một cách dễ dàng tự nhiên được và họ mới dễ cảm nhận tin theo được.
Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc và học tập.
Văn Sao Tam Biên, quyển 1
Thư trả lời cư sĩ Châu Trọng Hoa
Đại Sư Ấn Quang