Thuyết Thành Thật Ngôn, Xưng Tán Vô Lượng Thọ Phật Bất Khả Tư Nghị Công Đức

NPSTD7

 

Thuyết Thành Thật Ngôn, Xưng Tán Vô Lượng Thọ Phật Bất Khả Tư Nghị Công Đức

Phục thứ A Nan! Đông phương Hằng hà sa số thế giới, nhất nhất giới trung như Hằng sa Phật, các xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức. Nam, Tây, Bắc phương Hằng sa thế giới, chư Phật xưng tán diệc phục như thị. Tứ duy thượng hạ Hằng sa thế giới, chư Phật xưng tán diệc phục như thị.

Lại này A Nan! Hằng hà sa số thế giới ở phương Ðông, trong mỗi một thế giới, [các vị] Phật như cát sông Hằng, mỗi vị đều hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang, nói lời thành thật khen ngợi Vô Lượng Thọ Phật công đức chẳng thể nghĩ bàn. Chư Phật trong Hằng sa thế giới nơi phương Nam, Tây, Bắc cũng khen ngợi như thế. Chư Phật trong Hằng sa thế giới ở bốn phương bàng, trên, dưới cũng khen ngợi như vậy.

Trước hết nói đến phương Ðông là thuận theo thế tục: Mặt trời mọc từ phương Ðông. Các thế giới trong phương Ðông nhiều như số cát sông Hằng (Hằng hà sa số). Trong mỗi một thế giới đều có Hằng hà sa số Phật. Mỗi đức Phật “các xuất quảng trường thiệt tướng phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn” (đều hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang nói lời thành thật).
“Quảng trường thiệt tướng” (Tướng lưỡi rộng dài) chính là một trong ba mươi hai tướng hảo. Lưỡi to, dài, mềm mại, đỏ tươi, mỏng mảnh, thè ra có thể che cả mặt đến tận mí tóc. Trong sách Viên Trung Sao, đại sư Cừ Am viết: “Hiện tướng lưỡi rộng dài nhằm biểu thị chẳng hư vọng. Từ vô lượng kiếp đến nay, miệng không phạm bốn lỗi nên cảm được tướng này”.
Sách Sớ Sao cũng nói: “Bởi Thế Tôn nhiều kiếp nói lời thành thật nên tướng lưỡi rộng dài khác lạ thường nhân. Nhưng [tướng lưỡi của Phật] lại có thường tướng và hiện tướng khác biệt. Nếu là thường tướng thì ngậm vào vừa khít trong miệng, thè ra thì che cả mặt đến tận mí tóc. Ðể làm cho ngoại đạo sanh lòng tin, Phật đã từng hiện bày tướng như vậy. Còn nếu là hiện tướng thì có lớn, nhỏ sai khác”.
Kinh A Di Ðà chép: “Như thị đẳng Hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: ‘Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh” (Hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở trong nước mình hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật: Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức được hết thảy chư Phật hộ niệm này).
Kinh bảo: “Biến phú tam thiên đại thiên thế giới” (Che khắp tam thiên đại thiên thế giới), đấy chính là “hiện tướng” thù thắng. Ðem so kinh này với Tiểu Bổn thì Ðại kinh chẳng nói “biến phú” (che khắp) nhưng nói “phóng vô lượng quang” thì biết là tướng lưỡi này chính là quang minh ấy, quang minh ấy chính là tướng lưỡi này chẳng hai, chẳng khác. Kinh nói: “Phóng vô lượng quang” nên ta biết rằng pháp âm vang vọng vượt khỏi cả tam thiên đại thiên thế giới.
Sách Viên Trung Sao còn viết tiếp rằng:
“Kinh Pháp Hoa chỉ nói đến cao nhưng không nói đến rộng nên kinh ấy chỉ nói [pháp âm] thấu đến trời Phạm Thế. Kinh này nói về rộng nhưng chẳng nói đến cao nên bảo là ‘biến phú tam thiên đại thiên thế giới’. Cần biết rằng hai kinh nói giống nhau, chỉ vì kinh văn giản lược nên chỉ riêng nêu một phương diện, nhưng đều cùng biểu thị chẳng hư vọng; hiện tướng này để làm cho người nghe sanh lòng tin mà thôi.
Lại xét về nghĩa, thì kinh Pháp Hoa nói đến việc vượt ra ngoài tam giới theo chiều dọc nên chỉ nói đến cao. Kinh này nói cách vượt ngang khỏi tam giới nên chỉ bàn về rộng; nhưng ngang chính là dọc, dọc chính là ngang, văn tuy giản lược, nhưng ý nghĩa tương đồng”. Giáo nghĩa này của sách Viên Trung Sao thật là tinh diệu khiến người khác sanh lòng tin sâu xa.
Từ Ân pháp sư lại bảo: “Ðể chứng thực việc nhỏ thì Phật hiện tướng lưỡi hiện che cả mặt đến tận mí tóc. Nay kinh đây nói che khắp đại thiên là để chứng thực đại sự”. Ngài còn bảo: “Bồ Tát đắc tướng lưỡi che mặt nên chẳng nói hai lời, toàn nói lời chân thật. Lưỡi mới chỉ che mặt thì đã chẳng hư vọng, huống là che được cả đại thiên!” Vì vậy, bọn chúng ta phải nên sanh lòng tin chân thật đối với lời khen ngợi của chư Phật.
“Thuyết thành thật ngôn” (Nói lời thành thật): Nói lời chí thành, chân thật, chẳng dối. Sách Di Ðà Sớ Sao nói: “Thành thật ắt là đáng tin vì Thành (誠) là chân thật, khẩn thiết, không trá ngụy. Thật (實) là chắc chắn đúng, chẳng dối. Ðó là sư tử hống, vô úy thuyết, dẫu ngàn vị thánh nhân xuất hiện cũng chẳng thể thay đổi được, muôn đời giữ lấy làm khuôn phép vậy”. Sách còn viết: “Thuần chân, dứt vọng, vạn kiếp vẫn như thế. Nói lời thành thật, còn gì hơn thế!” Như vậy, lời chư Phật khen “Vô Lượng Thọ Phật công đức chẳng thể nghĩ bàn” chính là lời cực chân, cực thật, ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thể biến cải, muôn đời tuân thủ chẳng thể trái nghịch; thuần là chân thật chẳng hề hư vọng. Do vậy, bọn chúng ta đều phải nên tin chắc, chớ ôm lòng nghi.
Về chữ “bất khả tư nghị công đức” (công đức chẳng thể nghĩ bàn) xin xem lại lời giải thích trong phẩm mười một.
Kế đó, kinh nói mười phương Hằng sa chư Phật cũng đều khen ngợi đức Di Ðà như thế. Sách Hội Sớ nói: “Tuy chư Phật chứng đắc bình đẳng như một, nhưng cái lợi ích Niệm Phật được vãng sanh là diệu pháp bất cộng của Phật Di Ðà nên chư Phật nhượng đức, dạy quy về một đức Phật. Ðấy là kết quả của lời nguyện mười bảy vậy”. Ý nói: Phật, Phật đạo đồng, chẳng có cao, thấp; nhưng pháp môn Niệm Phật Vãng Sanh chính là diệu pháp bất cộng của Phật Di Ðà nên cái lợi ích đó cũng là bất cộng. Vì vậy, chư Phật kính nhường phẩm đức của A Di Đà Phật, nhằm hiển thị công đức vô biên của hết thảy chư Phật đều quy về một đức Phật Di Ðà, ngõ hầu mười phương chúng sanh đều nhập Di Ðà nguyện hải, vãng sanh thế giới Cực Lạc. Ðấy chính là nguyện thứ mười bảy “chư Phật khen ngợi” được thành tựu. Mười phương Phật khen ngợi thì danh hiệu mới có thể vang khắp mười phương, nhiếp trọn vô biên chúng sanh cùng quy hướng Cực Lạc.

 

T77

Ảnh: Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni

Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, giáo chủ cõi Ta Bà chúng ta, là một trong hằng hà sa số Chư Phật khắp mười phương "thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức". Nhờ vậy chúng ta mới biết có Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, biết Pháp môn Tịnh Độ thù thắng. Duyên phước này thật lớn lao thay! Biết được điều mà mười phương Chư Phật, không sót vị Phật nào, đều "hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang, nói lời thành thật khen ngợi". Thật kỳ vĩ ha! Chắc chắn đó phải là điều hy hữu nhất, thù thắng nhất [trong những điều hy hữu, thù thắng]. Thế thì, chúng sanh được nghe [những điều ấy], cũng là những chúng sanh có duyên phước bậc nhất vậy.

Vì sao có sự thù thắng như vậy? Vì sao được toàn thể Chư Phật thập phương đều tán thán? Ví thử, nếu điều ấy [Pháp môn ấy] chẳng mang lại lợi ích chân thật cho khắp pháp giới chúng sanh, mà chỉ hạn cuộc trong một bộ phận, hay một thứ bậc nào đó, và không đạt đến sự rốt ráo viên mãn trong Phật đạo, thì liệu có được tán thán như thế chăng? Chư Phật [toàn thể] thương xót chúng sanh chẳng bờ mé, chẳng phân biệt, nếu có một [Pháp] mà chẳng đáp ứng được bổn hoài ấy thì liệu được đồng thanh tán thán xiển dương [như thế] chăng? 

Bởi vậy, chúng ta đây kể cũng có nhân duyên thù đặc [chẳng gì sánh ví được] chứ chẳng chơi. Chúng ta thử nghĩ xem, còn có biết bao chúng sanh trong Tam đồ đang ngày đêm chịu khổ [và chẳng có chút nhân duyên để hành đạo], hay sanh trong những cõi nào đó phước báu ngập tràn, thì làm sao phát tâm hành đạo đây. Không tu hành thì làm sao tiến lên, làm sao giải thoát cho được. Hoặc giả sanh trong những thời kỳ Pháp diệt, Phật pháp chẳng có, thì làm sao đây? Rồi, ngay như hiện tại đây, nơi quả địa cầu này, được mấy nơi Chánh pháp hiện hữu, lưu truyền? Nói thế để thấy chúng ta giống như "đang ở trên núi báu" vậy, như Chư Tổ thường nói.

Thật sự mà nói, chúng ta cũng nên cảm ơn [được] sinh ra nhằm thời ...Mạt này nữa! Vì sao vậy? Thời này Đức Phật huyền ký rằng Niệm Phật thành tựu, chúng ta dù căn cơ có chậm lụt, phước báu hèn kém [hơn trước] thật, nhưng lại thật 'hợp thời', một đường một về thẳng Tây Phương, khỏi 'vòng vo Tam quốc' làm chi [tu các Pháp tự lực như các thời trước], mệt mỏi lắm, chẳng sướng ích gì đâu, trải qua ba Đại A Tăng Kỳ kiếp lận, nó dài vô tận, chưa kể còn trồi lên trụt xuống hoài [thoái chuyển]. Bởi, 'ngu si ám độn' [căn cơ] kể cũng có cái sướng của nó ha, được Phật lo tất. Nương Bổn Nguyện, niệm Phật, Phật rước về, 'khỏe re như bò kéo xe'! 

Bởi thế, thời nào ra thời đó, phải 'thức thời' nhé, đừng có đi ngược dòng thời gian [ham thích Tự lực], Phật không 'huyền ký' cho đâu. Thời nay là thời của "Tha lực", chỉ có Phật A Di Đà cứu nổi thôi, về Tây Phương rồi thì thời giờ vô tận, tha hồ mà 'đa văn bác học', học Pháp gì chẳng được. Thật sự, với Pháp môn này, nếu ai 'biết' Nương vào Tha lực [Bổn Nguyện] mà hành trì cả đời thì Phật rước chẳng sót một ai, bất luận căn cơ thế nào. Thế nhưng khổ nổi, nhiều người chẳng chịu, nhiều lắm, cứ đòi sánh ngang ...Phật lực cơ, thế nên mới rớt [thảm như thế]. Tín tâm Nguyện tâm chẳng có [đầy đủ] phần lớn là do từ chỗ này ra vậy, chứ chẳng phải do căn cơ, thiện căn [chưa đủ] gì đâu. Phải biết mình biết ta, nương Bổn Nguyện, niệm Phật, Phật rước không sảy một ai.

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 23. Thập Phương Phật Tán

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.