Cây Vô Lượng Sắc; Nơi Cây Hiện Cõi Phật

NPSTD7

 

Cây Vô Lượng Sắc; Nơi Cây Hiện Cõi Phật

Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, quốc trung vô lượng sắc thụ, cao hoặc bách thiên do-tuần, đạo tràng thụ cao tứ bách vạn lý. Chư Bồ Tát trung, tuy hữu thiện căn liệt giả, diệc năng liễu tri. Dục kiến chư Phật tịnh quốc trang nghiêm, tất ư bảo thụ gian kiến, do như minh kính, đổ kỳ diện tượng. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, cây trong cõi nước có vô lượng màu hoặc cao đến trăm ngàn do-tuần; cây Ðạo Tràng cao bốn trăm vạn dặm. Trong các Bồ Tát, dù kẻ thiện căn kém cỏi vẫn có thể biết rõ. Muốn thấy sự trang nghiêm nơi Tịnh Ðộ chư Phật thì đều thấy rõ nơi thân cây ấy như từ nơi gương sáng thấy rõ vẻ mặt. Nếu chẳng được như vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện bốn mươi: Cây vô lượng sắc; nguyện bốn mươi mốt: Nơi cây hiện cõi Phật).
Giải:
Chương này gồm hai nguyện, từ đầu đến “diệc năng liễu tri” (vẫn có thể biết rõ) là nguyện bốn mươi: “Cây vô lượng sắc”; từ chữ “dục kiến” (muốn thấy) trở đi là nguyện bốn mươi mốt: “Trong cây hiện cõi Phật”.
Trong câu “quốc trung vô lượng sắc thụ, cao hoặc bách thiên do tuần” (cây trong cõi nước có vô lượng màu, hoặc cao đến trăm ngàn do tuần), cây có vô lượng màu vì hết thảy các cây báu trong nước do bảy báu hóa thành, màu sắc rực rỡ, quang minh chói lọi, mọc thành hàng lối thẳng thớm, thân cây ngang nhau. Các cây báu ấy mọc đầy khắp cõi nước, cây cao từ trăm do-tuần cho đến ngàn do-tuần. Một do-tuần là từ bốn mươi dặm đến sáu mươi dặm, trong phần trên đã giải thích rõ. Nơi đạo tràng lại có một thụ vương (cây chúa) gọi là Ðạo Tràng Thụ, tức là cây Bồ Ðề.
Ở Tây Vực, từ phía Tây Nam của núi Chánh Giác đi khỏi bốn mươi dặm, có một cây Tất Bát La (Pipala), Phật từng ngồi dưới gốc cây ấy thành Chánh Giác, nên cây ấy được gọi là cây Bồ Ðề. Trong bản chú giải kinh Duy Ma Cật của ngài Tăng Triệu, phần giảng về phẩm Bồ Tát Hạnh có ghi: “Phật thành đạo dưới cội cây, cây được gọi tên là Bồ Ðề. Cây ấy quang minh không đâu chẳng chiếu đến, mùi hương không đâu chẳng thơm ngát, hình sắc vi diệu tùy theo ý thích mà thấy [sai khác]. Cây vang ra tiếng pháp theo ý thích của mỗi người. Ðây là cây báo (quả báo) ứng (ứng hóa) của Như Lai vậy. Chúng sanh gặp được cây ấy, tự nhiên ngộ đạo”.
Phần nói về thành tựu sở nguyện của kinh Vô Lượng Thọ đây cũng chép: “Phục do kiến bỉ thụ cố, hoạch tam chủng Nhẫn, nhất Âm Hưởng Nhẫn, nhị Nhu Thuận Nhẫn, tam giả Vô Sanh Pháp Nhẫn” (Lại do thấy được cây ấy nên tự nhiên đạt được ba thứ Nhẫn, một là Âm Hưởng Nhẫn, hai là Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn). Cây Bồ Ðề ấy có thể làm cho người trông thấy nó tự nhiên ngộ đạo, chứng nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn. Công đức của cây ấy thật vô thượng hy hữu, vi diệu khó nghĩ tưởng nổi. Vì vậy, cây ấy chính là do tâm trang nghiêm bí mật của đấng Di Ðà nguyện vương hóa hiện ra.
Mật Giáo phán định tâm ấy thuộc về Trụ Tâm thứ mười, là tâm được đức Như Lai chứng đắc trong địa vị thứ mười ba: Phật quả rốt ráo. Do vậy, tâm ấy có thể rốt ráo ban cho chúng sanh cái lợi chân thật. Cây ấy có những phẩm đức cao vòi vọi nên những Bồ Tát thiện căn kém cỏi trong cõi ấy khó thể thấy biết hết nổi, nhưng do đức Di Ðà rủ lòng Từ, dùng đại nguyện gia bị, nên họ đều được thấy biết rành rẽ cả.
Nguyện thứ bốn mươi mốt: “Cây hiện cõi Phật”. Nguyện “trong cây hiện cõi Phật” này giống như pháp Quán thứ tư trong Quán Kinh. Xin trích dẫn lời kinh tóm tắt như sau: “Thử chư bảo thụ sanh chư diệu hoa… dũng hiện chư quả, hữu đại quang minh, hóa thành tràng phan, vô lượng bảo cái. Thị bảo cái trung, ánh hiện tam thiên đại thiên thế giới nhất thiết Phật sự, thập phương Phật quốc diệc ư trung hiện” (Các cây báu ấy... sanh các đóa hoa mầu nhiệm, sanh ra các quả, có đại quang minh hóa thành tràng phan, vô lượng lọng báu. Trong các lọng báu ấy, hiện bóng hết thảy Phật sự trong tam thiên đại thiên thế giới. Mười phương cõi Phật cũng hiện trong ấy). Những cây báu được nói đến trong phép quán cây báu trong Quán Kinh chính là do nguyện này thành tựu.
Trong cõi Cực Lạc cây báu vô lượng, trong quang minh của mỗi cây hóa hiện vô lượng lọng báu. Trong mỗi lọng báu hiện bóng mười phương cõi Phật sáng sạch, thanh khiết như tấm gương sáng. Nơi những cây ấy, ta thấy được mười phương cõi Phật rõ ràng trọn vẹn như đối mặt với tấm gương sáng, tự nhìn thấy rõ vẻ mặt mình. Như vậy, cõi Cực Lạc hàm nhiếp hết thảy cõi Phật, tương nhập, tương tức chẳng thể nghĩ bàn.

 

CHCP11

Ảnh minh họa: "Lại này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy lớp lan thuẫn, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây đều bằng bốn thứ báu vây quanh giáp vòng, cho nên nước ấy tên là Cực Lạc."

(Kinh A Di Đà bằng tranh)

 Chúng ta đọc phần chú giải đoạn Kinh văn này để biết thêm về cảnh giới nơi Tây Vực [cõi Cực Lạc]. "Các cây báu ấy mọc đầy khắp cõi nước, cây cao từ trăm do-tuần cho đến ngàn do-tuần. Một do-tuần là từ bốn mươi dặm đến sáu mươi dặm, trong phần trên đã giải thích rõ. Nơi đạo tràng lại có một thụ vương (cây chúa) gọi là Ðạo Tràng Thụ, tức là cây Bồ Ðề." Cây cối luôn mang lại cho con người ta vẻ mát mẻ dễ chịu, nơi nào có con người [sinh sống], nơi đó thường có cây cối. Ở cõi ấy, Đức Phật cũng 'quy hoạch thiết kế' như vậy, " cây báu ấy mọc đầy khắp cõi nước", nhưng khác với cây cối nơi đây, cây báu nơi đó làm từ "bốn thứ báu vây quanh giáp vòng". Trong đó có một cây 'cổ thụ', tức cây Bồ Đề, cao lớn vượt trội. Cảnh giới rất thù thắng trang nghiêm thanh tịnh, chúng ta chẳng thể nào hình dung nổi. Cho nên, chúng ta cần gấp rút 'di cư' về cõi ấy thôi, đừng tham luyến chi thế giới Ta Bà này nữa. Ở đây dẫu cho là bậc vua chúa ở cung điện lầu các dát vàng đi nữa, so ra cũng 'chẳng là gì' với nhân dân nơi cõi ấy!

Thật sự, để một đời này được về nơi cõi ấy, chúng ta cần có hai phần dung thông nhau, đó là Lý và Sự. Phần Lý thật ra rất đơn giản, chúng ta đã luận bàn khá nhiều rồi. Còn phần Sự đúng là cả một quá trình từ lúc phát tâm đến khi mãn phần, dài ngắn thì tùy nhân duyên phước đức mỗi người. Để duy trì đạo tâm xuyên suốt cả quá trình này, có khi đó là hai phần ba cuộc đời, có khi nửa cuộc đời, có khi một phần ba cuộc đời, có khi chỉ là mấy năm, mấy tháng, thậm chí mấy ngày [cuối cùng] mới bắt gặp, v.v... thật sự cũng chẳng phải điều đơn giản. Cần có môi trường tu học, nhân duyên thầy bạn đạo tràng đồng tu chia sẻ dìu dắt nhau thì thời gian mới 'qua mau' được, cũng đỡ bị 'lầm đường lạc lối' một mình, chẳng biết đường ra. Thật sự tu học thời này rất cần những 'đồng hành' tích cực bên cạnh, không thể thiếu được, nhất là với giới trẻ và trung niên vậy.

Với Pháp môn này, phần Lý rất quan trọng, tức là Tông chỉ đường lối tu học. Nói một cách không quá chút nào thì nó chính là yếu tố quyết định chuyện thành bại 'đậu, rớt' của chúng ta vậy, còn phẩm vị thì ở sự hành trì, công phu, thực hành... Sự Lý phải viên dung, "dùng Tín Nguyện sâu, trì danh Phật hiệu". Vậy "Tín Nguyện sâu" đó [lấy cơ sở] từ đâu? Dạ vâng, chắc chắn là từ Kinh giáo, chẳng thể từ nơi khác được! Hành giả niệm Phật chân thật cầu sanh cần gầy dựng Tín tâm theo kiểu như: Vì [cái gì đó], nên [chúng ta] "chắc chắn được vãng sanh", "không thể không vãng sanh" cho được... Ví dụ, vì Phật có lời Thệ Nguyện tiếp dẫn như thế, nên hành giả niệm Phật chúng ta chắc chắn được vãng sanh; hay, chúng ta niệm Phật, nương Nguyện lực của Phật, nên chắc chắn được sanh về; hay là, Quang minh Phật "nhiếp thủ bất xả" nên không thể không được vãng sanh... Nói chung bằng cách nào đó, dựa vào Kinh giáo, chúng ta tin tưởng chắc thật rằng chúng ta niệm Phật nên chắc chắn được Phật rước trong đời này, tức là tin chắc chẳng nghi Bổn Nguyện tiếp dẫn của Phật. Rồi dùng Tín nguyện tâm này mà dụng công hành trì, xuyên suốt cả một đời, cùng các hạnh tự lợi lợi tha khác...

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.