Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, viễn ly phân biệt, chư căn tịch tĩnh. Nhược bất quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi xa rời phân biệt, các căn tịch tĩnh. Nếu họ chẳng quyết định thành Ðẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn, thì chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện mười hai: Quyết định thành Chánh Giác)
Giải:
Ðây là nguyện thứ mười hai: “Chắc chắn thành Chánh Giác”. Vãng sanh là quyết định thành Phật; điều này thể hiện thật rõ tâm nguyện Phật Di Ðà: Chỉ dùng một Phật Thừa để đưa trọn vô biên chúng sanh vào Niết Bàn rốt ráo.
Câu “viễn ly phân biệt, chư căn tịch tĩnh” (xa rời phân biệt, các căn tịch tĩnh) trích từ bản Tống dịch. Câu “nhược bất quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn giả, bất thủ Chánh Giác” (nếu chẳng quyết định thành Ðẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn, thì chẳng lấy Chánh Giác) trích từ bản Ðường dịch. Bản Ngụy dịch ghi là: “Bất trụ Định Tụ, tất diệt độ giả, bất thủ Chánh Giác” (Chẳng trụ Định Tụ, đều diệt độ thì chẳng lấy Chánh Giác).
Khi đại sư Thiện Ðạo chú giải bản Ngụy dịch, lắm chỗ Ngài dẫn bản Ðường dịch để làm rõ thêm ý nghĩa. Ðại sư đặt cho nguyện này bốn cái tên: Một là nguyện “ắt đạt diệt độ”, hai là nguyện “chứng đại Niết Bàn”, ba là nguyện “vô thượng Niết Bàn”, bốn là nguyện “trụ tướng chứng quả”.
Sách Bình Giải ca tụng: “Cao tổ (chỉ ngài Thiện Ðạo) đặt tên các nguyện đã hiển lộ tột cùng ý nghĩa lời nguyện vậy”. Nay hội bản không những đã trích lấy câu kinh từ bản Ðường dịch, lại còn đặt tên nguyện này là nguyện “quyết thành Chánh Giác” thì thật là rất phù hợp ý chỉ đại sư Thiện Ðạo vậy.
Trong bốn mươi tám nguyện, đại sư Thiện Ðạo gọi năm nguyện “quyết thành Chánh Giác”, “quang minh vô lượng”, “thọ mạng vô lượng”, “chư Phật khen ngợi” và “mười niệm ắt được vãng sanh” là chân thật nguyện. Ngài coi chúng là tâm yếu của cả bốn mươi tám nguyện. Như vậy, nguyện này là tâm tủy của Di Ðà hoằng thệ.
Bổn hoài của đức Phật chỉ là cốt sao khiến cho hết thảy chúng sanh quyết định thành Phật. Ðể thực hiện lời nguyện này, Ngài lại có đại nguyện thù thắng “mười niệm ắt vãng sanh”, chúng sanh chỉ việc nương theo con đường tắt cực viên, cực đốn, giản dị bậc nhất, niệm Phật vãng sanh, sẽ quyết định thành Phật.
Chữ “phân biệt” dùng trong lời nguyện nghĩa là suy nghĩ, hiểu biết được Sự và Lý thì gọi là phân biệt. Do lấy phân biệt hư vọng làm Thể Tánh, nên đối với pháp vô phân biệt lại lầm lạc sanh lòng phân biệt là Ngã hay là Pháp. Bởi vậy, phân biệt hư vọng gọi là phân biệt Hoặc. Ðoạn được cái “phân biệt Hoặc” ấy thì gọi là Vô Phân Biệt Trí. Sách Duy Thức Thuật Ký, quyển bảy giảng: “Phân biệt là tâm tam giới hữu lậu, là tâm sở pháp, nó lấy phân biệt hư vọng làm tự thể”. Chữ “viễn ly phân biệt” trong lời nguyện có nghĩa là rời bỏ, đoạn trừ phân biệt vọng hoặc, hiểu rõ “Chân Như chính là vạn pháp, vạn pháp chính là Chân Như”.
“Tịch tĩnh”: Lìa phiền não là Tịch (寂), dứt khổ sở là Tĩnh (静); tức là lý Niết Bàn. Sách Tư Trì Ký giảng: “Tịch tĩnh là lý Niết Bàn”. Quyển thượng sách Vãng Sanh Yếu Tập cũng bảo: “Hết thảy các pháp vốn tịch tĩnh, chẳng có, chẳng không”.
“Chư căn” là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu căn này đồng quy về tịch tĩnh như kinh Hoa Nghiêm dạy: “Quán tịch tĩnh pháp, ly chư si ám” (Quán pháp tịch tĩnh, lìa các si ám), chẳng sanh phân biệt, tự nhiên xa lìa si ám, nên các căn tịch tĩnh.
Bởi vậy, kinh dạy tiếp: “Quyết định thành Ðẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn”. “Ðẳng Chánh Giác” là “Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác” nói tắt. “Ðại Niết Bàn” cũng là tên khác của Phật Quả, dịch nghĩa là Nhập Diệt, nói đầy đủ là “bát Niết Bàn”. “Bát” (般) có nghĩa là Viên, Hán dịch Niết Bàn là Tịch. Do vậy, “bát Niết Bàn” dịch là “viên tịch”.
Trong Tâm Kinh Lược Sớ, tổ Hiền Thủ giảng: “Niết Bàn, Hán dịch là Viên Tịch, nghĩa là: Không đức gì chẳng đủ nên bảo là Viên, không chướng gì chẳng hết nên gọi là Tịch”.
Ðại Niết Bàn là Niết Bàn của Ðại Thừa, gọi là Ðại để phân biệt với Niết Bàn của Tiểu Thừa. Niết Bàn của Ðại Thừa có đủ ba đức: Pháp Thân, Bát Nhã và Giải Thoát, đủ bốn nghĩa: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, lìa khỏi hai thứ sanh tử phần đoạn và biến dịch, đầy đủ vô biên thân trí. Ðó là Ðại Thừa Niết Bàn.
Trong ba đức, Niết Bàn của Nhị Thừa chỉ có Giải Thoát; trong bốn nghĩa chỉ có Thường, Lạc, Tịnh, chỉ lìa phần đoạn, vẫn còn biến dịch sanh tử. Niết Bàn của Tiểu Thừa chỉ chú trọng nát thân diệt trí.
Câu đầu tiên: Ðây là nguyện thứ mười hai: “Chắc chắn thành Chánh Giác”. Vãng sanh là quyết định thành Phật; điều này thể hiện thật rõ tâm nguyện Phật Di Ðà: Chỉ dùng một Phật Thừa để đưa trọn vô biên chúng sanh vào Niết Bàn rốt ráo.
Chúng ta đây hàng ngày hành trì cầu vãng sanh, liễu thoát sanh tử, một đời thành Phật. Vãng sanh nghĩa là chắc chắn sẽ thành Phật, như lời Nguyện trên của Phật A Di Đà. Vậy chúng ta có chuẩn bị sẳn 'tâm lý' gì chưa [để sẽ thành Phật]? Một chút lo âu, một chút ... sợ sệt gì chăng? [Rằng mình hãy còn phàm phu, chưa được gì, liệu có xứng đáng...]. Không có vấn đề gì đâu Quý vị, về được đó, nương nhờ Bổn nguyện, mọi chuyện sẽ khác hẳn [gọi là tăng thượng duyên], chưa kể về đấy rồi hãy còn phải trải qua một quá trình huân tu rất dài lâu, tăng trưởng lên theo từng thứ lớp, từng phẩm vị nữa. Thế nên, chúng ta hãy mạnh mẽ quyết định "sẽ thành Phật" để cứu độ chúng sanh!
Đoạn tiếp theo: Câu “viễn ly phân biệt... đều diệt độ thì chẳng lấy Chánh Giác).
Bản Kinh này là Hội Bản được các Ngài hội tập, trích lục, lấy bỏ, sắp xếp, từ các Bản Kinh: Ngụy, Đường, Tống... mà thành, thế nên nghĩa lý rất đầy đủ, tổng hợp và cũng rất cô đọng [nhiều khi tổng hợp mà cô đọng nữa thành ra rất khó hiểu!].
Đoạn: Trong bốn mươi tám nguyện, đại sư Thiện Ðạo gọi năm nguyện “quyết thành Chánh Giác”, “quang minh vô lượng”, “thọ mạng vô lượng”, “chư Phật khen ngợi” và “mười niệm ắt được vãng sanh” là chân thật nguyện. Ngài coi chúng là tâm yếu của cả bốn mươi tám nguyện. Như vậy, nguyện này là tâm tủy của Di Ðà hoằng thệ.
"Chân thật nguyện", thế nào là chân thật nguyện? "Chân thật" nghĩa là không hư dối. Không hư dối điều gì? Nghĩa là [nếu] thiếu vắng những Nguyện này thì Ngài không thể thực hiện được bổn hoài cứu giúp tất cả chúng sanh thứ lớp viên thành Phật quả được. Chúng ta lấy ví dụ, như nguyện "Chư Phật khen ngợi", nếu giả sử không có Nguyện này thì chúng sanh thập phương làm sao biết đến Ngài, rồi biết đến có một Thế Giới Cực Lạc vô cùng tốt đẹp như vậy, rồi biết đến Pháp môn Tịnh Độ để làm phương tiện tu tập mà về. Những nguyện khác [trong các nguyện này] cũng vậy, đều có vai trò quyết định trong việc thực hiện hai việc: Một là giúp cho tất cả chúng sanh thập phương khắp pháp giới đều có cơ hội [gặp nhân duyên] để giải thoát rốt ráo, trở về Quốc độ của Ngài; hai là từ đấy tu tập viên mãn thành Phật quả, để rồi rộng độ cứu khắp chúng sanh.
Trong những nguyện này, nguyện thứ 18 "Mười niệm ắt vãng sanh" là mang tính bước ngoặc [giải thoát] cho chúng sanh, giúp chúng sanh liễu thoát sanh tử, chuyển từ phàm [phu] thành thánh [nhân], đạt Bồ Tát bất thoái chuyển... Trong 48 Đại nguyện, có tới 4 nguyện giúp chúng sanh vãng sanh, như nguyện 19 "Phát Bồ Đề tâm, tu chư công đức, phụng hành sáu Ba la mật, kiên cố bất thoái, nhất tâm niệm Ngã, trú dạ bất đoạn...", nguyện 21 "Sám hối được vãng sanh", hay nguyện 23 "Nhàm chán thân nữ, chuyển thân nam". Thế nhưng vì sao các Ngài chỉ coi Nguyện thứ 18 là chân thật? Đơn giản là vì Nguyện này giúp phổ độ được cho tất cả ba căn Thượng - Trung - Hạ, Phàm - Thánh gồm thâu đều là nhờ Nguyện này. Thế nên, thời Mạt này, chúng ta [có phần] vãng sanh đa phần là nhờ nguyện này. Các nguyện kia dẫu cũng giúp chúng sanh vãng sanh nhưng không làm được điều này, chỉ độ được một bộ phận, một thứ lớp chúng sanh [nào đó] mà thôi, không thể phổ độ được tất cả, thế nên không được xếp vào hàng chân thật nguyện. Pháp môn Tịnh Độ được gọi độ khắp ba căn là từ Nguyện này.
Những đoạn sau Ngài tác giả giải thích, liễu nghĩa các câu chữ trong Kinh văn, chúng ta đọc biết sẽ được thêm nhiều lợi ích.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ (trích lục)
Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện
Ngài Hoàng Niệm Tổ