Chánh Kinh:
Nguyện đương an trụ tam-ma-địa
Hằng phóng quang minh chiếu nhất thiết
Cảm đắc quảng đại thanh tịnh cư
Thù thắng trang nghiêm vô đẳng luân
Luân hồi chư thú chúng sanh loại
Tốc sanh ngã sát thọ an lạc
Thường vận từ tâm bạt hữu tình
Độ tận vô biên khổ chúng sanh
Nguyện sẽ an trụ tam-ma-địa
Luôn phóng quang minh chiếu hết thảy
Cảm được chốn thanh tịnh, rộng lớn
Trang nghiêm thù thắng không chi sánh
Các chúng sanh luân hồi các nẻo
Chóng sanh cõi tôi hưởng an lạc
Thường vận từ tâm cứu hữu tình
Ðộ hết vô biên chúng sanh khổ
Giải:
Tám câu trên đây chính là lời nguyện cầu thành Phật, nhiếp thủ Tịnh Ðộ. Tám câu này thật đúng là chỗ quy kết của toàn bộ các nguyện trên, cũng chính là cốt lõi của bốn mươi tám nguyện sẽ được thuật trong phần sau của chánh kinh.
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: “Nhược chư Bồ Tát dĩ đại bi thủy nhiêu ích chúng sanh, tắc năng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị cố Bồ Đề thuộc ư chúng sanh” (Nếu các Bồ Tát dùng nước Đại Bi làm lợi ích chúng sanh thì có thể thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì vậy, Bồ Ðề thuộc về chúng sanh). Ðể làm phương tiện rốt ráo hầu thành tựu sự nghiệp độ sanh nên Ngài phát đại nguyện nhiếp thủ cõi Tịnh Ðộ.
Trong hai câu: “Nguyện đương an trụ tam-ma-địa, hằng phóng quang minh chiếu nhất thiết” (Nguyện sẽ an trụ tam ma địa, luôn phóng quang minh chiếu hết thảy), “tam-ma-địa” chính là tam-muội hay Chánh Định. Nguyện an trụ trong Chánh Ðịnh, thường phóng quang minh chiếu trọn hết thảy. Nói cách khác, câu trên là nói về Tịch, về Thể; câu dưới nói về Chiếu, về Dụng. Hai câu kệ ngụ ý diệu đức: Định Huệ đẳng trì, Tịch Chiếu đồng thời, Thể - Dụng bất nhị.
Phóng quang là Tu Đức, Thể của nó là Tánh Đức: Tịch mà thường Chiếu, Chiếu nhưng luôn Tịch. Cõi nước là Thường Tịch Quang, thân là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang Như Lai, cho nên an trụ tịch định, luôn phóng quang minh chiếu khắp hết thảy. Do vậy, cảm được cõi Phật rộng lớn, thanh tịnh.
Gia Tường Sớ ghi: “Tu đạo nhanh chóng thành Phật nên bảo là siêu tuyệt”. Một lời của đại sư Gia Tường đã mở toang chỗ siêu việt thù thắng của Tịnh Tông: Nhanh chóng thành Phật, phàm phu vãng sanh chứng ngay Bất Thoái; có Bất Thoái mới mau chóng thành Phật được.
Do phương tiện thù thắng nên phổ nguyện: “Luân hồi chư thú chúng sanh loại, tốc sanh ngã sát thọ an lạc” (Các chúng sanh luân hồi các nẻo, mau sanh cõi tôi hưởng an lạc). Sự an lạc ấy mới là an lạc chân thật. Nhanh chóng thoát khỏi sanh tử, chóng thành Chánh Giác nên bảo là “an lạc”.
Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ lại dạy: “Vị chư hữu tình tuyên thuyết thậm thâm vi diệu chi pháp, linh đắc thù thắng lợi ích an lạc” (Vì các hữu tình tuyên thuyết pháp thậm thâm vi diệu để họ được lợi ích an vui thù thắng). Kinh còn chép: “Vô hữu nhất thiết thân tâm ưu khổ, duy hữu vô lượng thanh tịnh hỷ lạc. Thị cố danh vi Cực Lạc thế giới” (Chẳng có hết thảy khổ não nơi thân tâm, chỉ có vô lượng hỷ lạc thanh tịnh. Vì vậy, gọi là thế giới Cực Lạc). Do những điều trên, kệ nói: “Thọ an lạc” (Hưởng an lạc) vậy. Những điều vừa trình bày trên chính là ý nghĩa thật sự của câu kinh: “Huệ dĩ chân thật chi lợi” (Ban cho cái lợi chân thật).
“Thường vận từ tâm bạt hữu tình, độ tận vô biên khổ chúng sanh” (Thường vận từ tâm cứu hữu tình, độ tận vô biên chúng sanh khổ): Từ là ban vui, Bi là dẹp khổ. Hai câu trên thể hiện hoằng thệ đại từ đại bi của ngài Pháp Tạng: Nguyện thường vì hết thảy chúng sanh dẹp khổ, ban vui đến tột cùng đời vị lai; cứu vớt, gánh vác độ hết sạch chúng sanh xong mới thành Chánh Giác.
“Thường” (常) là nói về thời gian. Quá khứ, vị lai, hiện tại được gọi là “tam tế”. “Tế” (際) là bờ mé, giai đoạn. Thường là tính theo chiều dọc, tột cùng cả tam tế, bao quát hết thảy thời gian quá khứ, hiện tại lẫn vị lai.
“Vô biên” là nói về không gian, trọn khắp cả mười phương hư không, tức là theo chiều ngang bao trọn hết thảy mười phương, bao quát hết thảy không gian nên vô biên, mười phương tam thế vô lượng vô biên.
Pháp Tạng Bồ Tát trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, đại từ, đại bi độ thoát chúng sanh mãi cho đến khi độ xong tất cả mới ngưng nghỉ, nhưng thời gian vô cùng tận, không gian vô cùng tận, chúng sanh cũng vô cùng tận, nên đại từ, đại bi, đại nguyện, đại hạnh cũng vô cùng tận.
"Chúng sanh luân hồi trong các nẻo. Mau về cõi con hưởng an lạc"
(Ảnh minh họa: Kinh A Di Đà bằng tranh)
Đoạn đầu: Tám câu trên đây chính là lời nguyện cầu thành Phật, nhiếp thủ Tịnh Ðộ. Tám câu này thật đúng là chỗ quy kết của toàn bộ các nguyện trên, cũng chính là cốt lõi của bốn mươi tám nguyện sẽ được thuật trong phần sau của chánh kinh.
Gọi là Pháp Môn Tịnh Độ, chính là [Phật] độ [chúng sanh] về cõi Tịnh [Cực Lạc]. Về được cõi ấy [Cực Lạc], đây chính là bước quan trọng nhất của chúng sanh trong khắp Pháp giới, mà cũng là tâm nguyện, bổn hoài của không chỉ Phật A Di Đà mà là của hết thảy Chư Phật mười phương, chẳng hạng như Đức Phật Thích Ca ở cõi Ta Bà này vậy. Chúng ta thấy, Tịnh Độ có nhiều 'hạng mục', ví dụ như "Văn danh được phước, tu tù thắng hạnh", hay "Hương báu xông khắp", "Chiếu tột mười phương" [trông thấy, ngửi mùi sanh tâm hy hữu, đều tu Phật hạnh]... Tuy nhiên, 'công đoạn' vãng sanh về Cực Lạc mới là cốt yếu của Tịnh Độ tông. Làm cái gì thì làm, chúng sanh cần phải sanh về cõi ấy cái đã, lý do vì sao thì chắc chúng ta đều đã rõ, chúng ta đã học tập quá nhiều về điều này rồi. Cho nên các Chư Tổ Sư thường hay nói Chúng sanh trong cửu giới nếu bỏ Pháp này thì trên chẳng thể thành Phật đạo, mười phương Chư Phật nếu bỏ Pháp này thì dưới chẳng độ khắp quần manh. 'Pháp này' là Pháp môn Tịnh Độ, mà cụ thể nữa đó chính là "niệm Phật vãng sanh" [Đại nguyện 18 "Mười niệm ắt vãng sanh"].
Đoạn: Trong hai câu: “Nguyện đương an trụ tam-ma-địa, hằng phóng quang minh chiếu nhất thiết” (Nguyện sẽ an trụ tam ma địa, luôn phóng quang minh chiếu hết thảy), “tam-ma-địa” chính là tam-muội hay Chánh Định. Nguyện an trụ trong Chánh Ðịnh, thường phóng quang minh chiếu trọn hết thảy.
Phật A Di Đà hiện tại Ngài đã thành tựu hạnh nguyện rồi, nên hiện tại là Ngài đang "An trụ trong Chánh Ðịnh, thường phóng quang minh chiếu trọn hết thảy". Chiếu khắp hết thảy, không sót chỗ nào hết, từ Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, cõi Trời, Người, A Tu La..., tất cả các Quốc độ, tất cả cảnh giới trong Thập phương. Vì sao Ngài lại 'nhọc công' soi rọi khắp mọi nơi như thế? Ấy chính là để Ngài đang kiếm tìm 'chúng sanh niệm Phật'. Hạnh nguyện của Ngài muốn nhiếp thủ tất cả chúng sanh "mau về cõi con hưởng an lạc". Chúng sanh niệm Phật, Phật phóng quang nhiếp thủ chẳng rời. Chúng sanh thật sự tin tưởng, mong cầu được 'trở về', Phật đã phát hạnh nguyện tiếp dẫn "Mười niệm ắt vãng sanh". Tâm tâm tương ưng, cảm ứng đạo giao [hội tụ, gặp gỡ]. Phật bèn dùng Nguyện lực của Ngài gia trì, che chở, bảo hộ... [Phật trí] và cuối cùng là tiếp dẫn trở về [quê hương Cực Lạc]. Bởi vậy, mới có cái đạo lý mà Chư Phật, Chư Tổ Sư ra rả nói [mà hình như chúng sanh ít chịu tin nhận], đó là Người niệm Phật mà "nương Nguyện lực của Phật" để cầu vãng sanh thì không ai là không được toại ý, bất luận già trẻ bé trai, sĩ nông công thương, sang hèn giỏi dở, căn cơ trình độ, công phu cao thấp... Thật sự, cái đạo lý này còn hơn cái "1+1=2", một đằng chỉ là thế gian pháp, còn kia là Chánh pháp xuất thế, hằng cổ chí kim, bất di bất dịch, suốt Tam thế Chư Phật, khắp Thập phương chúng sanh. Nói thật sự không quá chút nào, với hành giả Tịnh Độ, cố gắng nổ lực cả một đời học đạo, tu hành... nếu mà gầy dựng cho được Tín tâm chắc thật chẳng nghi vào cái đạo lý này thôi, thì coi như vậy là quá đủ! Bởi đó cũng chính là chúng ta đã tìm thấy được 'chiếc vé về Tây' cùa A Di Đà Phật trao cho chúng sanh vậy. Phần còn lại theo thời gian [dài ngắn không cần biết] chỉ là ra sức giữ gìn, dụng công hành trì, tích lũy công đức, đợi lúc mãn phần Phật đến rước thôi.
Cho nên, những ai tu Tịnh Độ mà lơ là [những đạo lý này] thì là do điều gì? Có thể có nhiều lý do nhưng chắc là không thể ngoài ba trường hợp này: Một, tâm sanh tử không tha thiết [không chân thật cầu giải thoát, nên mọi Giáo lý dù quan trọng đến đâu cũng đều thành hý luận hết]; hai, thiếu "Thiện căn, phước đức, nhân duyên" [gặp nhiều nhân duyên bất đồng, không biết chọn lựa, khó bắt gặp, hay dẫu có bắt gặp mà vẫn không thể tin]; ba, cái Ngã quá lớn [nó 'chèn ngang ngực', không thể buông xuống để chân thật tu học, tiếp nhận].
Chúng ta cùng học tập những đoạn còn lại theo chú giải của các Ngài.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ (trích lục)
Phẩm 4. Pháp Tạng Nhân Địa
Ngài Hoàng Niệm Tổ