Công Đức Trang Nghiêm, Bất Khả Tư Nghị

NPSTD7

 

Công Đức Trang Nghiêm, Bất Khả Tư Nghị

Bỉ Cực Lạc quốc, sở hữu chúng sanh, dung sắc vi diệu, siêu thế hy hữu, hàm đồng nhất loại, vô sai biệt tướng. Đản nhân thuận dư phương tục, cố hữu thiên nhân chi danh.
Trong cõi Cực Lạc ấy, tất cả chúng sanh dung sắc vi diệu siêu thế hy hữu, đều cùng một loại, không có tướng sai biệt; chỉ vì thuận theo tập tục các phương khác mà có tên gọi là Trời hay Người.
Phẩm này nói rõ y báo và chánh báo cõi ấy đều vượt xa thế gian, thật là hy hữu.
Trước hết, ta hãy luận về chánh báo.

Trong câu “sở hữu chúng sanh dung sắc vi diệu” (tất cả chúng sanh dung sắc vi diệu), “dung” (容) là hình dáng, dung mạo; “sắc” (色) là sắc tướng. “Vi diệu” (微妙) là tinh vi, khéo léo đến cùng cực.
Hội Sớ giảng chữ “siêu thế hy hữu” như sau: “Chẳng phải là thân hữu lậu, sanh diệt nên bảo là siêu thế. Bản thể của tấm thân là pháp tánh thanh tịnh nên bảo là hy hữu”.
Sách Luận Chú cũng có bài kệ rằng: “Thiên nhân bất động chúng, thanh tịnh trí hải sanh” (Chúng trời, người bất động, sanh từ biển trí huệ thanh tịnh). Như vậy, tất cả chúng sanh đều từ thanh tịnh cú biến hiện, vượt xa thế gian nên kinh bảo “siêu thế hy hữu”.
Hơn nữa, họ đều từ liên hoa hóa sanh, chân thân kim sắc, đủ ba mươi hai tướng nên bảo là “siêu thế hy hữu”. Sắc tướng đều giống hệt như nhau nên bảo là “hàm đồng nhất loại, vô sai biệt tướng” (đều cùng một loại, không có tướng sai biệt). Ðấy chính là do các nguyện “thân đều sắc vàng”, “thân đủ ba mươi hai tướng”“thân không sai biệt” cảm thành.
Ngoài ra, chúng sanh trong cõi ấy “giai đắc thần thông tự tại” (đều được thần thông tự tại), “giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ” (đều trụ trong Chánh Định Tụ), “đắc Bất Thoái Chuyển” thật sự đều vượt xa trời, người, nhưng vì đa số các phương khác đều có trời, người, nên thuận theo thói đời cũng giả lập những danh từ trời, người. Phẩm Lễ Phật Hiện Quang trong kinh này có nói: “Duy thị chúng bảo trang nghiêm, thánh hiền cộng trụ” (Cõi ấy chỉ trang nghiêm bằng các báu, là nơi thánh hiền cùng ở). Ðã toàn là bậc thánh hiền thì lẽ đâu thật có trời, người như trong thế gian? Theo ngài Nghĩa Tịch, trong số những hạng được gọi là trời hay người nơi cõi ấy thì người niệm Phật vâng giữ Ngũ Giới (nghiệp sanh cõi người) được vãng sanh thì gọi là người, còn người niệm Phật kiêm hành Thập Thiện (Thập Thiện là nghiệp sanh cõi trời) được vãng sanh thì gọi là trời. Người sống trên mặt đất thì gọi là người, người ở trên hư không thì gọi là trời.

 

Phật cáo A Nan: - Thí như thế gian bần khổ khất nhân, tại đế vương biên, diện mạo hình trạng, ninh khả loại hồ? Đế vương nhược tỷ Chuyển Luân thánh vương, tắc vi bỉ lậu, do bỉ khất nhân, tại đế vương biên dã. Chuyển Luân thánh vương, oai tướng đệ nhất, tỷ chi Đao Lợi thiên vương, hựu phục xú liệt. Giả linh Đế Thích, tỷ Đệ Lục thiên, tuy bách thiên bội bất tương loại dã. Đệ Lục thiên vương, nhược tỷ Cực Lạc quốc trung Bồ Tát, Thanh Văn, quang nhan dung sắc, tuy vạn ức bội, bất tương cập đãi.
Phật bảo A Nan:
- Ví như kẻ ăn mày nghèo khổ trong thế gian ở cạnh đế vương thì diện mạo, hình trạng của họ có giống nhau hay không? Nếu đem so với Chuyển Luân thánh vương thì đế vương lại hóa ra xấu hèn khác nào kẻ ăn mày đặt cạnh đế vương. Chuyển Luân thánh vương oai tướng bậc nhất nhưng đem so với Ðao Lợi thiên vương lại càng xấu kém. Nếu đem Ðế Thích sánh với Ðệ Lục thiên thì chẳng bằng được một phần trăm ngàn lần. Ðệ Lục thiên vương nếu đem so với Bồ Tát, Thanh Văn trong cõi Cực Lạc thì quang nhan, dung sắc, cũng chẳng bằng nổi một phần vạn ức lần.
Ðoạn này dùng các thí dụ để hiển thị dung sắc siêu thắng của chúng sanh cõi Cực Lạc. Kinh dùng đến năm tầng thí dụ để so sánh:
1. Ðem kẻ ăn mày so với vua. Kẻ ăn mày là người xin cơm để sống, hình dung khô kháo. Vua cõi nhân gian ăn món quý, ở chốn sang trọng nhất, hình dáng béo tốt, tươi nhuận, vẻ mặt rạng rỡ. Ðem kẻ ăn mày sánh với đế vương thì kẻ ăn mày xấu kém đến hết mức!
2. Ðem vua trong nhân gian sánh với Chuyển Luân thánh vương thì vua cõi nhân gian lại càng thua kém đến bực nào.
3. Ðem Chuyển Luân vương so với Ðế Thích.
4. Ðem Ðế Thích so với Ðệ Lục thiên (tức là Tha Hóa Tự Tại thiên, là tầng trời cao nhất trong sáu tầng trời Dục Giới) lại càng xấu kém đến trăm ngàn lần hơn nữa.
5. Nếu đem vua tầng trời thứ sáu so với Bồ Tát và Thanh Văn cõi Cực Lạc thì “tuy vạn ức bội, bất tương cập đãi” (chẳng bằng được đến một phần vạn ức lần).
Ðoạn kinh này đã nói rõ đến cùng cực vẻ mặt sáng ngời, dung sắc siêu thế hy hữu của chúng sanh cõi Cực Lạc.

 

Sở xử cung điện, y phục ẩm thực, do như Tha Hóa Tự Tại thiên vương.
Cung điện họ ở, y phục, thức ăn, vật uống giống như vua cõi trời Tha Hóa Tự Tại.
Câu này diễn tả y báo siêu việt, thù thắng của cõi Cực Lạc, ba thứ áo mặc, cơm ăn, chỗ ở đều giống hệt như vua cõi trời tầng thứ sáu là tầng cao nhất trong Dục Giới.

 

Chí ư oai đức, giai vị, thần thông biến hóa, nhất thiết thiên nhân, bất khả vi tỷ, bách thiên vạn ức, bất khả kế bội. A Nan ưng tri: Vô Lượng Thọ Phật Cực Lạc quốc độ, như thị công đức trang nghiêm, bất khả tư nghị.
Còn như oai đức, địa vị, thần thông biến hóa [của họ] thì hết thảy trời, người, chẳng thể sánh nổi; [hơn đến] trăm ngàn vạn ức, chẳng thể tính nổi lần. A Nan nên biết: Cõi nước Cực Lạc của Vô Lượng Thọ Phật công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn như thế.
Ðoạn kinh này chỉ rõ oai đức, phẩm vị của chánh báo đều siêu thế hy hữu.
“Oai đức” là oai thần và công đức. Người cõi Cực Lạc “thần thông đỗng đạt, thế lực tự tại”, “trụ Chánh Định Tụ”, “quyết chứng cực quả” nên kinh bảo là oai đức không ai sánh bằng. “Giai vị” (階位) là thứ bậc và phẩm vị. Họ đắc ba thứ Bất Thoái, địa vị ngang với bậc Bổ Xứ nên địa vị không ai sánh bằng.
“Thần thông biến hóa” là như kinh nói Thanh Văn trong cõi ấy “năng ư chưởng trung trì nhất thiết thế giới” (có thể nắm hết thảy thế giới trong lòng bàn tay). Hết thảy chúng sanh cõi ấy lại còn đắc các thần thông thù thắng như Túc Mạng, Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Thần Túc, Lậu Tận như lời nguyện thứ mười có nói: “Ư nhất niệm khoảnh, siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật sát, châu biến tuần lịch, cúng dường chư Phật” (Trong khoảng một niệm, vượt qua ức na-do-tha trăm ngàn cõi Phật đi khắp tất cả cúng dường chư Phật).
Thần thông của họ thật đã vượt xa thần thông Nhị Thừa, huống hồ là thần thông của trời, người! Vì vậy, ba thứ oai đức, địa vị, thần thông biến hóa của họ hết thảy trời người chẳng thể sánh được nổi, dẫu chỉ so với một phần của trăm ngàn ức lần, thậm chí chẳng thể tính kể lần thì vẫn còn kém xa lắm.
Do đó, ở cuối đoạn kinh trên Phật đã buông lời khen ngợi chung cõi nước A Di Ðà Phật là: “Như thị công đức trang nghiêm bất khả tư nghị” (Công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn như vậy).

 

kinh a 11

Ảnh minh họa: "Cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn như thế"

(Kinh A Di Đà bằng tranh - Nguồn: phatgiao.org.vn)

Chúng sanh cõi ấy "dung sắc vi diệu" (tinh vi, khéo léo đến cùng cực). Còn muốn [thí dụ] cho dễ hình dung thì Từ kẻ ăn mày đến Vua, rồi từ Vua đến Chuyển Luân vương, rồi Chuyển Luân vương đến Đế Thích,... Cuối cùng là so với Tha Hóa Tự Tại Thiên, mà vẫn còn kém đến “tuy vạn ức bội, bất tương cập đãi” (chẳng bằng được đến một phần vạn ức lần).

Còn như Oai đức, Phẩm vị, Thần thông đạo lược thì lại càng chẳng thể sánh ví được, chẳng thể tính đếm được [ngàn vạn ức lần hơn]. Nói chung là chẳng thể nghĩ tưởng, suy lường được. [Mặc dù thần thông, đạo lực của các Bậc kia chẳng phải hạng tầm thường chút nào]!

Rồi chỗ ăn, chỗ mặc, chỗ ở, tất thảy đều đạt mức tối ưu, siêu việt, tột đỉnh phước báu [như tầng trời cao nhất cõi Dục].

Một cõi nước siêu việt, thù thắng như thế, từ con người đến y báo, chánh báo... đều "siêu thế, hy hữu". Vậy chúng ta còn chần chừ gì nữa mà chẳng muốn về?!

Vấn đề là muốn về mà có về được chăng? Chắc chắn được! "Há chẳng muốn về, về liền được - Gió trăng quê cũ há ai tranh?". Hai câu đối này do tự tay Đại sư Ấn Quang viết trên Liễng. Ngài chẳng nói suông. Chỉ cần chúng ta chân thật tin tưởng, thành thật niệm Phật, và thật sự 'muốn về', thì nhất định đời này được Phật rước về. Đừng 'tranh danh đoạt lợi' với ai làm chi, bởi về cõi ấy thì thứ gì mà chẳng có, mà "gió trăng quê cũ có ai giành' đâu!

Thật sự, tin cho 'tới nơi', giữ cho chắc niềm tin ấy, [kéo theo Nguyện, Hạnh], trọn một đời này, bất luận [nó] dài ngắn thế nào, bất luận vô thường đến hay 'hữu thường' đến [già, yếu, suy...], Phật đều rước tất, chẳng sót một ai! Bởi thế, đã không tin thì thôi, mà đã tin thì đừng hoài nghi Quý vị! Mà muốn phát khởi Tín tâm chân thật thì cần 'tinh chuyên' [tinh tấn, chuyên niệm], theo thời gian ắt sẽ Tín Nguyện đầy đủ. Phát khởi, hành trì đã khó, 'giữ lửa' [cho Đạo tâm cầu giải thoát] lại càng khó. Điều tối quan trọng là đừng để trần cảnh, ngũ dục lôi cuốn, chiếm đoạt [mất Đạo tâm ấy].

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 18. Siêu Thế Hy Hữu

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.