Nhắn với người đời
Tâm tánh chúng sanh bằng với chư Phật, do mê trái nên luân hồi chẳng ngơi. Như Lai từ mẫn, tùy cơ thuyết pháp, khiến cho khắp hàm thức đều theo đường về nhà. Hiềm rằng căn tánh muôn thứ chẳng giống nhau, nếu không phải người lỗi lạc sẽ khó thể thoát khỏi! Nhân đấy, bèn đặc biệt mở ra một môn Tịnh Độ để nhiếp khắp hết thảy: Thượng trung hạ căn, Ngũ Nghịch, Thập Ác tướng địa ngục hiện, nhất niệm dốc lòng thành, liền lên được bờ kia. Đẳng Giác Bồ Tát đức bằng với Phật, còn phải vãng sanh mới chứng được Bồ Đề. Phàm phu sát đất, đầy đủ phiền não, chẳng chịu niệm Phật, làm sao tốt lành cho được? Nhắn với người đời, cùng sanh tín nguyện, chấp trì Phật hiệu, từ đầu đến cuối không thay đổi, đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn, mau ra khỏi Ngũ Trược, lên thẳng chín phẩm, thấy Phật nghe pháp, tự chứng Vô Sanh, nương đại nguyện luân phổ độ hữu tình.
Sáu phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài
Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn do Như Lai tâm bi triệt để phổ độ chúng sanh, khiến cho những kẻ không có sức đoạn Hoặc, hàng phàm phu sát đất tín nguyện trì danh liễu thoát ngay trong đời này, cùng làm bầu bạn với Quán Âm, Thế Chí. Trên đến Đẳng Giác Bồ Tát địa vị gần với Phật Quả, còn cần phải vãng sanh, mới thành Chánh Giác. Chí viên, chí đốn, thông trên thấu dưới, vượt trội các pháp môn đã được nói trong một đời giáo hóa tại một phương. Vì thế, khi đức Phật giảng kinh Di Đà, sáu phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài cùng một giọng khen ngợi, xưng là kinh Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm. Lại khen đức Thích Ca Thế Tôn ta có thể làm được chuyện hy hữu rất khó, đức Thế Tôn ta tự nêu túc nhân rằng: Ta ở trong đời ác Ngũ Trược, làm chuyện khó khăn này, chứng được Bồ Đề, vì hết thảy thế gian nói pháp khó tin này, thật là rất khó, khiến cho người nghe tin nhận phụng hành, diễn bày rốt ráo bổn hoài xuất thế vậy.
Bọn phàm phu chúng ta [chỉ có thể] ngửa tin lời Phật, y giáo phụng hành
Nhưng pháp môn này rất sâu khó lường, dẫu được Bổn Sư và chư Phật cùng khuyên tin tưởng, thế nhưng kẻ nghi trong đời vẫn còn rất nhiều! Chẳng những thế trí phàm tình không tin, ngay cả những hàng tri thức thâm hiểu sâu xa Tông, Giáo vẫn còn nghi hoặc. Không những bậc tri thức không tin mà ngay cả Thanh Văn, Duyên Giác đã chứng Chân Đế, nghiệp tận tình không cũng vẫn còn nghi hoặc! Chẳng những hàng Tiểu Thánh không tin, ngay đến bậc Quyền Vị Bồ Tát hãy còn nghi ngờ! Cho đến ngay cả bậc Pháp Thân đại sĩ tuy có thể tin chắc, nhưng vẫn chưa thể thấu nguồn tột đáy. Ấy là vì pháp môn này lấy Quả Giác làm cái tâm để tu nhân, toàn thể là cảnh giới Phật. Chỉ có Phật với Phật mới có thể rốt ráo thấu hiểu cùng tột, trí của những hạng người kia dễ hòng biết được nổi! Bọn phàm phu chúng ta ngửa tin lời Phật, y giáo phụng hành, tự được lợi ích chân thật. Nếu được nghe pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này chính là nhiều kiếp đã trồng sâu thiện căn, huống chi còn tin nhận phụng hành nữa ư?
[Nhiều] không thể dùng toán số thí dụ để biết được nổi!
Truy nguyên, từ khi đại giáo truyền sang Đông, Viễn Công sáng lập Liên Xã. Từ đấy trở đi, bậc cao nhân trong Tông, trong Giáo, không ai chẳng hoằng dương, khen ngợi, như Trí Giả, Từ Ân, Thanh Lương, Vĩnh Minh v.v… vì pháp này là môn trọng yếu nhất để nhập đạo cho người sơ cơ, là bước cuối cùng để thành Phật trong kinh Hoa Nghiêm. Do vậy, hạng phàm phu đầy dẫy phiền não nương theo Phật lực để liễu sanh tử, không thể dùng toán số thí dụ để biết được nổi! Nhằm vào thời Nam Tống, bậc tiên đức trong tông ta có cư sĩ Long Thư, tên là [Vương] Nhật Hưu, tự là Hư Trung, thừa nguyện tái lai, dùng thân thuyết pháp: Tuy sống trong trần tục, nhưng chẳng lập gia đình, tuy đậu quốc học nhưng chẳng làm quan, phát huy tâm tông Nho - Phật, dạy dỗ hàng đệ tử có đủ lòng tin. Lại muốn cho đồng nhân đều cùng sanh Tịnh Độ, nên soạn sách này để hướng dẫn rộng khắp. Lời lẽ đơn giản nhưng mẫu mực, lý lẽ sâu xa nhưng rõ rệt, thuận theo căn cơ kém cỏi, khéo léo dẫn dụ dần dần, dốc lòng đau đáu chiều theo tâm họ, không gì chẳng thấu. Sợ họ ngại khó chẳng vào, nên dùng cách Thập Niệm buổi sáng để làm phương tiện tối thắng nhiếp trọn các căn cơ; đợi đến khi vào sâu dần dần, như được thức ăn ngon lành, đã biết mùi vị, liền đối với những pháp nhật dụng sẽ tự khăng khắng vâng giữ, chỉ nghĩ đến Phật, nào phải chỉ hạn cuộc trong [thời gian niệm Phật chừng bằng] một bữa trà; lấy đó làm nề nếp nhất định! Nếu có thể đầy đủ tín nguyện, cả đời kiên trì Thập Niệm, ắt quyết định vãng sanh. Huống chi lại gia công dụng hạnh!
Nhờ niệm Phật, quỷ bèn chẳng hiện nữa
Chẳng phải chỉ có thế, dù cho hoàn toàn không có tín nguyện, không tu trì, nhưng biết đến thánh hiệu Di Đà thì cũng là thiện căn chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Là vì do biết [Phật hiệu] nên hễ gặp cảnh đụng duyên, sẽ có thể đề khởi. Như Trần Xí bị oán quỷ [là những kẻ từng bị] chính ông ta giết chết, kéo đến bức bách; nhờ niệm Phật, quỷ bèn chẳng hiện nữa. Do vậy, cả đời niệm Phật. Lâm chung vãng sanh lại còn có thể quay trở lại tự thuật tiền nhân, đích thân hiện diệu tướng sanh Tây của chính bản thân. Nếu trước kia, chưa từng được nghe biết [danh hiệu Phật] ắt sẽ bị quỷ đoạt mạng, mãi mãi luân hồi. Do vậy, ba phước trong Quán Kinh thì phước đầu tiên là những điều thiện thế gian, đều có thể dùng để hồi hướng, và trong chín phẩm thì phẩm cuối cùng chính là những kẻ tướng địa ngục đã hiện còn được vãng sanh. Còn những ai nhất tâm bất loạn, diệu quán viên thành, chứng tam-muội mà vãng sanh thì không cần phải bàn đến nữa! Do vậy, biết pháp môn Tịnh Độ nhiếp khắp mọi căn cơ hoàn toàn chẳng bỏ sót ai, tốt lành thay, cao quý thay, lớn lao thay!
Tông chỉ của sách là gì?
Sách ấy lấy lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật, ngay trong đời này quyết định được vãng sanh làm Tông. Đọc kỹ sẽ đoạn nghi sanh tín, khuyên khắp mọi người tu trì. Riêng nêu những sự tích vãng sanh để khuyên lơn, cũng như những việc cả một đời Vương cư sĩ đã làm, cuối sách chỉ rõ: Thượng trung hạ căn không căn nào chẳng được thâu tóm. Ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh không pháp nào chẳng phô bày rõ ràng. Do vậy, bèn khắc in phổ biến rộng khắp để hòng đáp tạ chừng bằng một giọt nước biển trong trần sát “công Phật Thích Ca thuyết pháp, chư Phật chứng minh, liệt tổ truyền đăng, tâm đại từ bi soạn sách của Vương cư sĩ” mà thôi!
Ảnh minh họa: "Sáu phương Chư Phật khen ngợi" (Kinh A Di Đà bằng tranh)
Đoạn đầu: Đẳng Giác Bồ Tát đức bằng với Phật, còn phải vãng sanh mới chứng được Bồ Đề. Phàm phu sát đất, đầy đủ phiền não, chẳng chịu niệm Phật, làm sao tốt lành cho được? Nhắn với người đời, cùng sanh tín nguyện, chấp trì Phật hiệu, từ đầu đến cuối không thay đổi, đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn, mau ra khỏi Ngũ Trược, lên thẳng chín phẩm, thấy Phật nghe pháp, tự chứng Vô Sanh, nương đại nguyện luân phổ độ hữu tình.
Thật sự là tu Pháp môn này cần nhất là gì vậy? Dĩ nhiên là như lời Phật lời Tổ dạy: sanh tín, phát nguyện, chấp trì Phật hiệu. Tức là ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh tròn đầy chẳng thiếu. Thế nhưng với người tu lâu năm, vấn đề còn ở chỗ, đó là "từ đầu đến cuối không thay đổi", tức là cả đời không đổi, cái này mới khó. Nên tu hành rất cần những thiện tri thức, những hội chúng, đồng tu, cùng đồng lòng đồng chí hướng, để khuyên lơn, tương trợ, nương tựa lẫn nhau. Đường đời, đường đạo vốn nhiều gập gềnh khúc khuỷu, sẽ có những lúc rất cần 'chị ngã em nâng', khi đó những đồng tu đồng đạo tâm huyết, dù chỉ một lời khuyên, một lời chia sẻ, động viên, một cái tâm chân thành... coi vậy mà cần thiết lắm đấy. Lúc đó họ là những 'thiện tri thức' thật sự của chúng ta đấy, chứ chẳng ở đâu xa.
Đoạn tiếp theo: Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn do Như Lai tâm bi triệt để phổ độ chúng sanh, khiến cho những kẻ không có sức đoạn Hoặc, hàng phàm phu sát đất tín nguyện trì danh liễu thoát ngay trong đời này, cùng làm bầu bạn với Quán Âm, Thế Chí.
Đến với đạo cái cần kíp đó là sự 'giác ngộ'. Giác ngộ điều gì? Giác ngộ được rằng cuộc đời này khổ lắm, tương lai [nếu không tu hành] cũng khổ lắm, chẳng sung sướng gì đâu, chẳng phải chết là hết [khổ] đâu. Rồi sao nữa? Phải có tâm hướng thượng, mong cầu giải thoát, hết khổ mới được. Chứ biết khổ rồi, đang phải gánh chịu rồi, nhưng cam chịu, nhẫn nhục cho qua ngày đoạn tháng, gọi là 'cho xong một kiếp người' thì thôi... Cần một sự 'bừng tỉnh', 'một cuộc cách mạng' trong tâm, phát đại chí, lập đại nguyện. Dám gánh vách trách nhiệm, dốc lòng cầu đạo để cứu mình cứu người mai sau. Việc này trên lý thuyết nói là vậy, nhưng thực tế cũng phải cần 'thiện căn, phước đức, nhân duyên' [đã từng gieo] của mỗi người vậy. Chẳng phải tự nhiên mà bắt gặp được nhân duyên tốt lành, gặp được thiện tri thức dìu dắt vào đạo, rồi chịu tiếp nhận, thâm nhập, huân tập... Tất cả đều có nhân quả cả. Rồi một khi đã theo thì theo tới cùng, đã tin thì tin cho tới nơi [chẳng nghi hoặc nữa], chăm chỉ dụng công, kiền thành chẳng đổi. Thế thì "liễu thoát ngay trong đời này, cùng làm bầu bạn với Quán Âm, Thế Chí" chẳng phải là việc trên giấy bút nữa, mà là thực tế vậy.
Đoạn tiếp: Nhưng pháp môn này rất sâu khó lường, dẫu được Bổn Sư và chư Phật cùng khuyên tin tưởng, thế nhưng kẻ nghi trong đời vẫn còn rất nhiều!...
Vì sao Pháp môn này chính Đức Phật hay Chư Tổ nói là khó tin đến vậy? Lý do là vì như Chư Tổ giải thích "Ấy là vì pháp môn này lấy Quả Giác làm cái tâm để tu nhân, toàn thể là cảnh giới Phật" thế nên "chỉ có Phật với Phật mới có thể rốt ráo thấu hiểu cùng tột", các cảnh giới còn lại không thể làm được như vậy. Vậy phàm phu chúng ta phải làm gì? Rất đơn giản, chúng ta chẳng cần phải bận tâm nhiều chi cho mệt [mà cũng chẳng được gì], chỉ cần "ngửa tin lời Phật, y giáo phụng hành", ắt "tự được lợi ích chân thật". Như vậy nghĩa là thế nào? Chẳng hạn, Phật nói rằng: "Chúng sanh muốn cầu sanh về nước ta, hãy niệm danh hiệu ta đi, ta sẽ rước về". Đây chẳng phải là lời nói suông mà là Thệ Nguyện đã chứng thành của Ngài, nhờ tu hành tích công lũy đức vô lượng kiếp mới được vậy, nên mới gọi là "quả giác". Phật hiện tại đã tại thế thành Phật, nên lời Thệ Nguyện kia là không hư dối. Việc còn lại của chúng ta là gì? Tin tưởng, y giáo phụng hành, ắt có thành tựu. Vậy sao thấy có rất nhiều người niệm Phật quá trời mà sao cuối đời gặp ách nạn này kia, chẳng được Phật rước? Chúng sanh hay nhìn vào những chỗ này nên sanh ra hoài nghi lời Phật thuyết. Cho nên nói thì dễ nhưng đi sâu vào thực hiện chẳng phải là việc giản đơn. Cho nên Kinh phải ghi rõ là 'chí tâm tin ưa', lòng tin chẳng phải bình thường mà phải cần "chí tâm" mới được. Như thế mới không bị giao động, mới giữ được lâu bền. Những người niệm Phật quá trời kia dù cũng muốn vãng sanh lắm nhưng không có được cái này đành thất bại. Rồi câu Kinh này cũng khó hiểu khó lãnh hội quá, Chư Phật, Chư Tổ xuất thế liễu giải ra một lần nữa cho chúng sanh biết cách mà thọ trì. Đó chính là hai cách chính đích thân A Di Đà Phật ngài thị hiện để truyền trao lại cho chúng sanh. [Chúng ta đã chia sẻ trong bài Đại Nguyện Thứ 18]. Đừng nói rằng là theo tư tưởng này tư tưởng kia ở đây nhé. Chánh Pháp chỉ có một và chỉ một mà thôi, hoàn toàn không có hai. Nếu nói thế chúng sanh dễ bị hiều nhầm [rồi không tin tưởng mà tội nghiệp họ]. Ví dụ, Đại nguyện 18 thì chỉ có một Đại nguyện 18, Đại Nguyện 19 thì chỉ có một Đại nguyện 19, chẳng có cái thứ hai nào khác cả. Việc của Phật, Bồ Tát, các Ngài thị hiện, là liễu giải ra từ lời Kinh, để thêm một bước nữa, giúp chúng sanh dễ thọ dụng, y giáo phụng hành. Cho nên, dẫu cho một ngàn Đức Phật xuất thế đi nữa, các Ngài cũng liễu giải y hệt vậy thôi, chẳng chút sai lệch nào hết, bất luận ở thời kỳ nào, căn cơ chúng sanh ra sao... hay ở bất cứ quốc độ nào trong vô lượng vô biên Phật quốc trong pháp giới. Chúng ta nói rõ ràng như thế để biết, Chánh pháp là Chánh pháp, ai tin nhận hay không là việc của họ. Ai bài bác, phỉ báng thì tự họ phải chịu nhận lấy nhân quả vậy. Xin nhắc lại rằng, Chánh Pháp mãi mãi là Chánh Pháp, mãi mãi trường tồn, dẫu từ kim khẩu của ngàn vạn Đức Phật khác nhau xuất thế nói ra vẫn hệt như vậy, không khác. Chánh pháp hoàn toàn không phụ thuộc vào không gian, thời gian, đối tượng [thuyết, nghe], lại càng chẳng bị chi phối bởi bất cứ vị nào [liễu giải, thuyết giảng] cả. Có chăng chỉ là liệu có thuyết đúng và hành đúng theo Chánh Pháp hay không mà thôi.
Những nội dung còn lại chúng ta cố gắng học tập lời Chư Tổ dạy, thật sự có nhiều nội dung rất giá trị, lợi ích thiết thực.
Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên
Lời đề từ và tựa bản in lại Long Thư Tịnh Độ Văn
Đại Sư Ấn Quang