Dẫu Thân Tôi Trụ Trong Các Khổ, Nguyện Tâm Như Thế Mãi Chẳng Thoái

NPSTD7

 

Dẫu Thân Tôi Trụ Trong Các Khổ, Nguyện Tâm Như Thế Mãi Chẳng Thoái

Chánh kinh:

Ngã hạnh quyết định kiên cố lực
Duy Phật thánh trí năng chứng tri
Túng sử thân chỉ chư khổ trung
Như thị nguyện tâm vĩnh bất thoái
Hạnh tôi: sức quyết định, kiên cố
Chỉ Phật thánh trí chứng biết được
Dẫu thân tôi trụ trong các khổ
Nguyện tâm như thế mãi chẳng thoái

Giải:
Bổn nguyện được chia thành ba đoạn lớn: Đoạn đầu là tán thán Phật, đoạn kế là phát nguyện, bốn câu sau cùng này thỉnh Phật chứng minh. Tỳ-kheo Pháp Tạng phát nguyện xong, liền thỉnh đức Thế Tự Tại Vương Như Lai chứng minh.
“Ngã” (Tôi) là tiếng Pháp Tạng tự xưng. Hạnh nguyện của tôi vốn sẵn đủ sức kiên cố quyết định, chỉ có đức Phật Thế Tôn là đấng đã viên mãn tam giác, ngũ nhãn rạng ngời, trí huệ vô ngại mới có thể chân thật chứng minh cho tôi, nên nói: “Duy Phật thánh trí năng chứng tri” (Chỉ Phật thánh trí chứng biết được).
Hơn nữa, khi ngài Pháp Tạng phát nguyện thì đã thuộc về cảnh giới rất sâu của bậc Ðịa Thượng Bồ Tát nên những người khác chẳng thể thấu hiểu nổi, chỉ có thánh trí của Phật mới có thể chứng biết nổi. Ðiểm này chứng tỏ Ðại Sĩ Pháp Tạng diệu đức khó thể lường nổi.
Hai câu kệ cuối cùng chính là kết thệ để lập tâm. Bản Ðường dịch ghi: “Túng trầm Vô Gián chư địa ngục, như thị nguyện tâm chung bất thoái” (Dẫu chìm trong các ngục Vô Gián, nguyện tâm như vậy trọn chẳng thoái). Địa ngục Vô Gián khổ sở vô hạn, bản Ðường dịch lấy nỗi khổ nặng nề nhất trong Vô Gián để chỉ chung tất cả các nỗi khổ khác.
Trong bản hội tập, ngài Pháp Tạng thề rằng: “Túng sử thân chỉ chư khổ trung” (Dẫu cho thân trụ trong các khổ) vì chữ Khổ dĩ nhiên đã gồm cả cái khổ địa ngục. Thề rằng: Dẫu đọa vào địa ngục thì hạnh nguyện trên đây của tôi cũng chẳng bị thoái chuyển, minh thị rõ điều được nói trong câu kệ ngay trước đó: “Ngã hạnh quyết định kiên cố lực” (hạnh tôi: sức quyết định, kiên cố).
Sách Hội Sớ cũng giảng: “Nếu chỉ có nguyện thì nguyện ấy là hư dối; nếu chỉ có hạnh, hạnh ấy cũng luống uổng. Vì vậy, nguyện hạnh phải hỗ trợ nhau thì việc làm (tu hành) mới thành tựu”.

 

ddao1

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Đoạn: “Ngã” (Tôi) là tiếng Pháp Tạng tự xưng. Hạnh nguyện của tôi vốn sẵn đủ sức kiên cố quyết định, chỉ có đức Phật Thế Tôn là đấng đã viên mãn tam giác, ngũ nhãn rạng ngời, trí huệ vô ngại mới có thể chân thật chứng minh cho tôi, nên nói: “Duy Phật thánh trí năng chứng tri” (Chỉ Phật thánh trí chứng biết được).

Pháp Tạng Bồ Tát đọc lên Hạnh Nguyện của mình trước Đấng Như Lai, thỉnh Phật chứng minh cho. Tuy chưa phải là Bổn Nguyện do Ngài chưa thâm nhập, quán sát các cảnh giới cõi Phật, nhưng chí nguyện của Ngài đã thể hiện rõ. Đức Như Lai vô cùng tán thán và khẳng định Hạnh Nguyện của Ngài chắc chắn sẽ thành tựu, do Đức Thế Tôn nhìn thấy được sức kiên cố, sức quyết định [không gì lay chuyển] từ nơi Pháp Tạng Bồ Tát. Tiếp theo, nhận lời vâng thỉnh của Pháp Tạng, Đức Phật bèn soi chiếu 210 ức cõi nước Phật cho Bồ Tát chiêm nghiệm thâu thập. Một ức là một con số rất lớn, có nhiều luận thuyết khác nhau, có thuyết cho rằng một ức là mười triệu, có thuyết là một trăm triệu. 210 ức cõi nước là khoảng 21 tỉ cõi nước Phật [hay 2.1 tỉ]. Trong Pháp giới có vô lượng vô biên cõi nước Phật [cảnh giới con người chúng ta không đếm kể được], con số kia có thể xem là đầy đủ để Bồ tát Pháp Tạng tư duy, chọn lựa. 

Đoạn tiếp: Trong bản hội tập, ngài Pháp Tạng thề rằng: “Túng sử thân chỉ chư khổ trung” (Dẫu cho thân trụ trong các khổ) vì chữ Khổ dĩ nhiên đã gồm cả cái khổ địa ngục. Thề rằng: Dẫu đọa vào địa ngục thì hạnh nguyện trên đây của tôi cũng chẳng bị thoái chuyển, minh thị rõ điều được nói trong câu kệ ngay trước đó: “Ngã hạnh quyết định kiên cố lực” (hạnh tôi: sức quyết định, kiên cố).

Ở đây chúng ta học Ngài ở điều gì? Đó chính là: Sức quyết định, sức kiên cố. Tu hành pháp môn này rất cần những điều này. "Dẫu cho thân trụ trong các khổ. Nguyện tâm như vậy thề không thoái". Càng gặp nghịch cảnh khổ đau, tâm ta càng mạnh mẽ, kiên định, không thoái. Như vậy thì chắc chắn thành tựu. Chứ còn như đụng cảnh đụng duyên thử thách chúng ta bèn tìm cách 'rẽ ngang' sang đường khác, hay tìm cách thoái lui; hoặc tu hành mà tâm không quyết định, cứ lưỡng lự: không biết đời này có vãng sanh được không?, nếu có gì thì đời sau tu tiếp vậy, hay khó quá, khổ quá rồi [thôi buông trôi quách cho xong]... Tu tập mà mang những cái tâm như vậy thì sao thành tựu? Những chuyện thế gian muốn thành công chúng ta còn phải tận tâm tận sức huống hồ Pháp xuất thế gian liễu sanh tử.

Tu hành cần nhất ở sự kiên định, kiên định Tín tâm, kiên định Nguyện tâm, rồi siêng năng hành trì. Thành bại nó quyết định bởi những điểm này. Nếu ai mà đạt được tới cảnh giới "nhất tâm" [chí tâm, chân tâm thường trụ] thì chắc chắn có được những yếu tố này, không bao giờ thoái chuyển, dẫu đụng cảnh duyên gì đi nữa. Bởi giống như nó thuộc về tự tánh rồi, không mất đi được. Nhất tâm thì có hai loại Nhất tâm: Niệm Phật nhất tâm [Nhất tâm bất loạn] và nhất tâm tin tưởng [Chí tâm tin ưa]. Chúng được thể hiện trong hai Nguyện rất quan trọng là Nguyện thứ 18 và 19. So sánh hai bên, rõ ràng chúng ta thấy "Nhất tâm tin tưởng" là dễ dàng hơn nhiều, thích hợp mọi căn cơ từ Thượng thánh đến Hạ phàm, ai cũng có thể làm được. Cho nên được Mười Phương Chư Phật tán thán.

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 4. Pháp Tạng Nhân Địa

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.