Thư trả lời cư sĩ Huệ Phố
Đến khi lâm chung, chắc chắn cậy vào Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh
Mấy năm chưa gặp gỡ, đang trong cơn đại kiếp này, ông vẫn an cư không phải lo lắng gì, khôn xiết vui mừng, an ủi! Muôn phần chẳng ở lâu trong thế giới này được, hãy nên với quyến thuộc và các thân hữu cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh Tây Phương; ấy mới là kế hoạch tối thượng bậc nhất. Vì thế, đặt pháp danh cho Đàm Trần Thị là Tông Tịnh. Tông (宗) là gốc, là chủ. Tịnh (浄) là tu Tịnh nghiệp để cầu sanh về cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới. Muốn sanh về Tịnh Độ, hãy nên lấy ăn chay, niệm Phật, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng làm gốc. Do sát nghiệp trong đời trước mà cảm thành quả báo gặp phải sát kiếp này. Nay do ba nghiệp thân - miệng - ý thanh tịnh, kèm thêm ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh sẽ tương ứng với thệ nguyện to tát, lớn lao của A Di Đà Phật. Đến khi lâm chung, chắc chắn cậy vào Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh. Lợi ích ấy chẳng thể tuyên nói bằng lời lẽ hay văn từ được đâu! Xin hãy đem ý này nói với bà ta và hết thảy mọi người.
Ngoài ra, còn kèm theo Một Bức Thư Trả Lời Khắp là khai thị châu đáo nhất, đơn giản nhất, rõ ràng nhất. Hãy tự giữ một phần và cho bà Đàm một phần để mọi người đều được xem. Lại còn có một trang dược phương cũng khá thần hiệu. Toa cai thuốc phiện, trị bệnh đau lói vì ứ hơi ở gan và bao tử, dẫu là danh y hay Tây Y cũng không thể trị được, [nếu dùng toa này thì] đều hễ trị liền khỏi. Xin đừng coi thường rồi bỏ qua!
Thư gởi cư sĩ Tông Tịnh
Lấy thân làm gương để tự hành, dạy người
Mấy hôm trước nhận được thư bà, liền gởi ngay cho bà một gói Văn Sao Tục Biên, hình chụp được kẹp trong trang đầu cuốn sách. Cái chết của con bà về mặt Sự là do lầm thuốc, nhưng thật ra là nhằm dẫn dắt bà niệm Phật vãng sanh, siêu phàm nhập thánh! Đừng bi ai, hãy nên sanh lòng vui mừng, may mắn! Các kinh sách Tịnh Độ bà đã đều đọc cả rồi, chớ nên vẫn giống như hạng phụ nữ vô tri vô thức. Đang trong lúc đại kiếp tàn phá rỗng toang cả trời đất này, hãy nên lấy thân làm gương để tự hành, dạy người, khiến cho khắp những ai hữu duyên đều cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh về Tây Phương.
Gần đây nữ giới đúng là đã biến thành yêu tinh, trang điểm còn lòe loẹt hơn bọn gái làng chơi. Bà hãy nên nghiêm túc giữ theo quy cách cũ, thống thiết gột rửa những thói xấu theo đuổi thời trang; áo vải, dép vải [là được rồi], đừng mặc áo lượt là lộng lẫy. Đừng giồi phấn, đừng bôi nước hoa; vâng giữ giáo huấn của thánh nhân “trang điểm lả lơi sẽ khơi gợi lòng dâm [nơi kẻ khác]” để hết thảy mọi người trông thấy bà đều sanh lòng khâm phục, kính trọng. Những kẻ ham chuộng thời trang chính là nhằm làm cho hết thảy mọi người khởi tâm ô nhiễm đối với họ! Há chẳng phải là tự khinh thường, tự rẻ rúng hay sao? “Quân tử chánh kỳ y quan, tôn kỳ chiêm thị, nghiễm nhiên nhân vọng nhi úy chi” (Quân tử áo mũ ngay ngắn, nhìn ngó đàng hoàng, tư thái trang trọng khiến người khác trông thấy phải kính nể). Như thế thì hết thảy mọi người đều sanh lòng kính trọng, rồi lại nói với họ về pháp môn Tịnh Độ, ắt họ sẽ cảm động sâu xa.
Xin hãy đọc kỹ bài Tịnh Độ Quyết Nghi Luận trong bộ Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên và lá thư gởi cho hòa thượng Quảng Huệ ở Ngũ Đài Sơn trong bộ Văn Sao Tục Biên thì sẽ biết rõ nguyên do của pháp môn Tịnh Độ, sẽ có thể ở trước hết thảy mọi người tùy ý diễn nói. Có một phụ nữ Hồi Hồi ở Vu Hồ tin tưởng Phật pháp sâu xa, năm ngoái gởi thư xin quy y, bà ta thường khuyên người khác niệm Phật. Có một Nho sĩ cực thông minh chẳng tin nhân quả, chẳng tin Phật pháp. Bà ta cùng người ấy biện luận, bảo ông ta đọc Văn Sao, ông ta đọc chưa được mấy thiên đã cậy bà ta xin quy y giùm. Đấy chính là vì bà ta nghiêm trang đoan chánh khiến người ta phải phục; do vậy người ta kính vâng theo lời. Nếu trang điểm như yêu tinh, làm sao có thể khiến cho người có đại học vấn tin tưởng hành theo được ư? Người Hồi Hồi khó giáo hóa nhất! Cha mẹ, anh em, thân thích của bà ta cũng rất kính trọng bà, nhưng chẳng chịu nghe theo bà ta ăn chay niệm Phật. Những người được bà ta khuyến hóa đều là người Hán. Ông Mã Thuấn Khanh ở Hồ Nam cũng là người Hồi Hồi (trong Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên có lá thư gởi cho ông ta), vợ chồng và sáu đứa con đều quy y, chứ chẳng có một người [Hồi Hồi] nào khác!
Ảnh: Tượng Phật A Di Đà bằng đá nguyên khối, cao 27m, nặng 3000 tấn, một kiệt tác kiến trúc và văn hóa tâm linh, trên đỉnh núi Phật Tích, năm 2010.
Thư đầu, đoạn đầu: Muốn sanh về Tịnh Độ, hãy nên lấy ăn chay, niệm Phật, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng làm gốc. Do sát nghiệp trong đời trước mà cảm thành quả báo gặp phải sát kiếp này.
Nói chung việc tu tập thường khởi đầu bằng việc 'ăn chay, niệm Phật'. Ăn chay thì ban đầu có thể ăn tháng mấy ngày, sau dần tăng lên đến trường chay, còn niệm Phật thì thường mới đầu đến chùa, đạo tràng cộng tu cùng đại chúng, sau thì có thời khóa ổn định tại nhà, càng ngày càng tăng dần thời lượng, số lượng lên, có thể kết hợp tu tại gia cùng tu đại chúng, hoặc chủ yếu chỉ tại gia... tùy nhân duyên, hoàn cảnh, không có sự bắt buộc gì ở đây cả. Chứ chẳng phải nói thời nay phải nên kết duyên tu cùng đại chúng mới được, công đức nhiều, còn tu một mình tại gia thì bị này bị kia gì đó, hay thiếu sự cọ sát, thử thách này kia! Thật sự tu tại gia nếu giữ gìn nghiêm mật, siêng năng, chuyên cần thì nhiều khi còn hơn cả tu cùng đại chúng đấy. Vì sao? Vì luôn giữ được sự ổn định, không bỏ sót, không bị rơi vào sự phụ thuộc với các thế lực này kia như phương trượng, chủ trì, quản chúng..., bởi thời buổi hiện nay biết đâu thật đâu giả, đâu chánh đâu tà, đâu đúng đâu sai, nhỡ như rơi vào [phụ thuộc] các thành phần chẳng ra gì thì sao? Bởi nhiều khi mình muốn thay đổi hay thúc liễm bản thân lên những cung bậc mới cũng chẳng được! Còn như thời nay, thời đại thông tin bùng nổ, đất chật người đông, thông tin tạp loạn, mà lại sợ tu kiết thất một mình sợ bị vọng tưởng, hay ma chướng này kia ư? Thật sự rằng nhiều khi còn muốn mong 'kiết thất' được cho đỡ ồn náo, cách ly nhiễm ô xung quanh càng nhiều càng tốt mà còn chưa được kìa, ở đó mà sợ! Cho nên, kết duyên cùng đại chúng chỉ là phương tiện phụ trợ thôi, ít nhiều tùy duyên, chẳng phải nhất thiết phải có hay phải thành 'công khóa' gì đó mới được.
Chỗ 'kiêng giết, bảo vệ sanh mạng', tức ăn chay, kiêng giết, phóng sanh, lấy những cái này làm trợ duyên trợ hạnh [xuyên suốt] cho việc tu tập hành trì cả đời của mình, dĩ nhiên cùng với những Phật sự khác, nếu đủ nhân duyên. Thật sự rằng, việc ăn chay, kiêng giết, phóng sanh là những việc làm cụ thể, gần gủi và thiết thực nhất trong cuộc sống hàng ngày. Thử hỏi chúng ta phát tâm niệm Phật cầu vãng sanh mà còn ăn mặn [hay rượu thịt], hàng ngày còn sát sanh hại vật, chiên sào nấu nướng các con vật này kia, như thế thì sao đành, xem sao đặng đây? Đã phát tâm tu tập rốt ráo để thành Phật cứu độ chúng sanh mà lại vẫn hàng ngày giết chóc, ăn nuốt chúng sanh thì sao đây, liệu tâm hạnh có tương ưng chăng? Đó là chưa kể về nhiều thứ khác nữa. Cho nên với hành giả Tịnh Độ thì việc 'ăn chay, niệm Phật' [cầu vãng sanh] hầu như đã trở thành một 'chuẩn mực kép' vậy, khó thể tách rời ra được.
Câu 'Do sát nghiệp trong đời trước mà cảm thành quả báo gặp phải sát kiếp này', nói chung ở những nơi những vùng, hay lãnh thổ nếu có sát kiếp nhiều như săn đánh bắt nhiều [gần biển], chăn nuôi chế biến thủy hải sản, động vật, hay những nơi từng có chiến tranh bom đạn tàn khốc... thì rất cần phải có Phật Pháp lan tỏa ở những nơi đó, càng nhiều càng mạnh càng tốt, để giúp trước hết ngăn ngừa hạn chế những việc làm này [đánh bắt, nuôi trồng, sát sanh, chế biến, xung đột...], sau nữa là để hóa giải, tiêu trừ bớt những nghiệp sát hẫy hừng cố kết ra đó, giúp dân chúng thức tỉnh, chuyển đổi nghề nghiệp, đồng thời cũng giảm bớt những thiên tai nhân họa sẽ ập đến trong tương lai, bởi có nhân ắt có quả, có ác ắt có họa, không chóng thì chày thôi. Nếu có Phật Pháp để giáo huấn, tiêu trừ, hóa giải bớt đi thì sẽ đỡ được biết bao thảm kịch. Còn không cứ là mưa bão, lũ lụt, động đất, núi lửa, sóng thần, ôn dịch, chiến tranh, cướp bóc, giết hại, bạo lực, bất an, bất ổn, lầm than, đói khát... cứ xảy ra liên miên mãi vậy thôi, thậm chí ngày càng nhiều hơn, dữ dội hơn, do thế đạo nhân tâm con người ngày càng đi xuống, hành vi, thái độ, lời nói càng xuống cấp. Giáo dục giờ đa phần chỉ dạy con người cách để kiếm tìm vật chất, sự tranh đua, chẳng chú trọng giáo dục lòng nhân, đạo lý nhân quả là mấy.
Đoạn tiếp: Nay do ba nghiệp thân - miệng - ý thanh tịnh, kèm thêm ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh sẽ tương ứng với thệ nguyện to tát, lớn lao của A Di Đà Phật. Đến khi lâm chung, chắc chắn cậy vào Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh.
Với hành giả Tịnh Độ, một khi tâm hạnh [Tín - Nguyện - Hạnh] tương ưng với Thệ Nguyện của Phật A Di Đà thì chắc chắn sẽ được thành tựu, cuối đời được Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh, chẳng sót một ai. Cái này mà nếu ai tu bên đường lối tự lực niệm Phật thì chắc chắn sẽ chẳng thể dám khẳng định như thế được, mà là thế nào? Rằng lâm chung phải thế này phải thế kia nữa thì mới đảm bảo việc vãng sanh, chứ làm gì có chuyện chắc chắn như thế được! Hoặc giả muốn có được chữ 'chắc chắn' như thế thì phải đạt được những thứ có thể nói 'không tưởng' với hàng phàm phu như: Công phu nhất tâm bất loạn, hay phải buông xả vạn duyên, mảy trần chẳng nhiễm, hay như trong đầu chỉ có một câu A Di Đà Phật, ngoài ra không có bất cứ thứ gì khác, hay chẳng có vọng tưởng tạp niệm nào cả... đại khái là như thế, thật sự những thứ đó với phàm phu tục tử tu giữa cõi trần ô trọc này nói chỉ để 'cho vui' hay 'sướng miệng' thôi, chứ hành được cái nổi gì. Mà lạ cái là thuyết giảng những điều đó mọi người rất thích nghe, rất 'đã tai', có sức hút kỳ lạ, rất được sũng ái, kính ngưỡng, tôn thờ. Còn dạng nói những lời chân thật, bắt họ phải thực hành, siêng năng, hành trì tinh tấn như phải ăn chay, niệm Phật, thời khóa cẩn mật, hay như cần phải tin 'mười niệm tất sanh', 'nãi chí thập niệm', cần phải tin và hành theo Bổn Nguyện, không được nghi hoặc, thì lại chẳng mấy ai chịu tin theo. Nói chung chúng sanh chỉ thích những điều cao siêu, lý huyền lý diệu, hay phải thế này phải thế kia, 'phải' cho nhiều vào, càng khó càng tốt, hình như để 'loại' ra hết các hạng phàm phu tục tử thì phải, chỉ còn lại bậc Thánh nhân thì may ra mới có cửa, không lẽ Pháp môn Tịnh Độ mà lại độ sanh kiểu đó chăng? Thật sự nói kiểu đó là một sự 'ích kỷ' chứ từ bi cái nổi gì? Tức là dạng sợ người khác [phàm phu] có phần, được lợi ích chân thật giải thoát, còn mình thì sợ chẳng được [do chẳng dám tin]. Thật sự trong tu đạo thì thế nào mới được gọi là 'tự lợi, lợi tha', tức 'lợi mình, lợi người'? Đó chính là những hành vi, lời nói để giúp mình và người cùng được lợi ích, bất luận họ là ai, cao hay thấp, giỏi hay dở, tinh tấn nhiều hay ít, tu lâu hay mau, già hay trẻ, hơn mình hay kém mình..., không cần biết, bất luận.
Còn như thế nào mới là 'tương ứng với thệ nguyện to tát, lớn lao của A Di Đà Phật'? Rất đơn giản thôi, Phật tuyên thế nào thì tin thế ấy, chẳng nghi hoặc, thế là xong. Còn cách thức gầy dựng niềm tin ấy như thế nào thì chúng ta đã luận bàn nhiều rồi, cứ thế mà thực hành thôi, cứ kiên trì, không chóng thì chày ắt sẽ được, điều này coi vậy chứ cần thời gian để nó 'thấm' từ từ chứ không đơn giản, muốn là có ngay được đâu. Cho nên, chẳng phải nói là tâm ta với tâm Phật phải giống nhau như: diệt trừ tham sân si, tâm không còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, rồi mảy trần chẳng nhiễm, phiền não chẳng dấy khởi... như thế mới gọi là 'tương ưng'. Khổ nỗi, Phật là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, còn ta là bậc phàm phu tục tử, còn trôi lăn ngụp lặn trong luân hồi, như thế thì sao tâm tâm cho giống nhau được. Mà 'tương ưng' ở đây phải hiểu là tâm hạnh của ta [Tín - Nguyện - Hạnh] phải thực hiện cho đúng với Thệ Nguyện của Phật, thế là được, tức Phật tuyên sao thì thực hành đúng vậy, cả tâm và hạnh đều phải vậy, bởi hầu như chỉ là cái hạnh thực hiện được [niệm Phật] nhưng cái tâm thì đa phần là chưa [tức tin được lời tuyên thệ ấy]. Bởi vậy sao cứ nói chúng sanh tu quá trời mà thành tựu có hạn là vậy. Tức là do tâm hạnh không tương ưng với Thệ Nguyện, hay nói cách khác là do không Y giáo phụng hành với lời Phật thuyết ra.
Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc và học tập.
Văn Sao Tam Biên, quyển 2
Đại Sư Ấn Quang
Như Hòa chuyển ngữ