Đời Người Chuyện Gì Cũng Có Thể Nhường Người Khác Được, Chỉ Có Chuyện Này Chẳng Thể Nhường Ai!

NPSTD7

 

Đời Người Chuyện Gì Cũng Có Thể Nhường Người Khác Được, Chỉ Có Chuyện Này Chẳng Thể Nhường Ai!

(Thư thứ tám) Có thể nói là mẹ ông đã có thiện căn từ đời trước, nên mới được cả nhà ông niệm Phật [hộ niệm lúc cụ lâm chung]. Nếu những lời ông kể về các tướng trạng lúc cụ sắp mất và sau khi đã qua đời đều là chân thật chẳng dối thì chắc chắn cụ được vãng sanh. Nếu là lời đơm đặt sẽ chẳng có ích gì cho mẹ, ngược lại còn mắc lỗi lớn! Ông chỉ nên bớt đau buồn để niệm Phật và bảo người nhà đều cùng niệm Phật. Tuy nói là “vì cầu siêu cho mẹ mà niệm”, nhưng thật ra đem so với việc chỉ niệm cho chính mình thì công đức càng lớn hơn nhiều lắm! Dùng những điều này để bảo ban, họ sẽ đều phát lòng hiếu thảo. Trong khóa tụng sớm tối, Quang sẽ hồi hướng cho mẹ ông bảy ngày để trọn hết tình bạn.

 

Chỉ có chuyện này chẳng thể nhường ai!

Người đời nay đa số hiếu danh, [khi cha mẹ đã khuất bèn] viết truyện, soạn ký, đều là màu mè rỗng tuếch! Chỉ nên dốc hết sức tu trì để cha mẹ chưa được vãng sanh sẽ lập tức được vãng sanh, đã vãng sanh sẽ tăng cao phẩm vị. Đấy mới là nhiệm vụ trọng yếu nhằm trọn hết tấm lòng của kẻ làm con đối với cha mẹ; những chuyện khác đều nhằm làm inh tai rộn mắt thế tục mà thôi! Cha ông tuổi đã cao, hãy gấp dốc sức khuyên cụ siêng tu để khỏi kém sút mẹ ông. Đời người chuyện gì cũng có thể nhường người khác được, chỉ có chuyện này chẳng thể nhường ai! Vì thế, Khổng Tử nói: “Đương nhân bất nhượng ư sư” (Gặp việc nhân thì phải làm, dẫu thầy mình cũng không nhường). Ông nói đến chuyện “giấy vàng viết thần chú bằng tiếng Phạn”, lẽ đâu không có lợi ích! Nhưng cái gốc của lợi ích nằm nơi lòng Thành. Nếu có lòng Thành thì lợi ích càng lớn. Nếu luông tuồng như trò đùa trẻ con thì lợi ích sẽ nhỏ nhoi lắm! Tục ngữ có câu: “Nhân tâm quả thành, kim thạch vị khai” (Lòng người nếu thành thật; đá, vàng còn phải nứt), huống là Phật, Bồ Tát há chẳng cảm ứng ư? Chung Thất (lễ bốn mươi chín ngày) thỉnh Tăng niệm kinh, cũng nên đổi thành niệm Phật. Nếu có vị Tăng thanh tịnh thì được; chứ nếu chỉ có loại Tăng ăn mặn uống rượu thì hãy nên dành khoản tiền ấy để giúp đỡ người gặp cảnh ngặt nghèo. Chỉ cần gia quyến niệm Phật mà thôi, cần gì phải bắt chước làm theo khuôn sáo thế tục? Cũng không nhất định phải tới Phổ Đà. Hễ thuận tiện thì tới; nếu không, đừng tới! Thấy mặt Quang trọn chẳng ích lợi gì! Do vậy, chẳng thà chuyên tâm y theo Văn Sao để hành còn tốt hơn!

 

Hiện thời thế đạo nhân tâm bại hoại đến cùng cực, không thể vãn hồi! Chỉ có cực lực đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình để làm cơ duyên xoay chuyển. Giáo dục trong gia đình cũng phải chú trọng nhân quả, báo ứng. Dạy dỗ con gái nên kèm thêm chuyện ăn chay, bởi lẽ cõi đời thiếu người hiền là vì trong thế gian thiếu mẹ hiền. Nếu con cái từ bé đã được mẹ hiền dạy dỗ, un đúc thành tánh thì sau này ắt sẽ có thể giúp chồng thành tựu phẩm đức, dạy con cái đều thành người hiền. Nữ nhân lấy việc giúp chồng dạy con làm thiên chức, trách nhiệm ấy so ra càng nặng nề, to lớn hơn nam nhân. Người đời chẳng biết giảng nói, suy xét nơi đây, cứ lầm lạc muốn cho nữ nhân tham dự  chuyện chánh trị giống như đàn ông, chẳng biết sự vụ đến mức tột bực như thế đó! Do vậy, cõi đời ngày một hết sức loạn lạc, người hiền ngày một hiếm hoi! (Ngày mồng Chín tháng Chín năm Dân Quốc 15 - 1926)

 

Không có Cảm thì sẽ chẳng thể cậy vào Phật lực [ứng]

(Thư thứ chín) (...) Liên Anh hiếu thảo sâu đậm, thật đáng khâm phục, kính trọng. Ngộ Chánh nói “chẳng hồi hướng vẫn được lợi ích lớn lao!” Lời ấy không thỏa đáng! Bởi lẽ, phàm phu thiếu sức chánh niệm hồi hướng thì những gì đã tu sẽ đều quy về phước báo trời người. Không hồi hướng mà có thể khiến cho cha mẹ đã khuất từ lâu được hưởng lợi ích siêu độ thì chỉ có bậc thánh nhân đắc đạo mới có thể làm như thế được! Lời của Ngộ Chánh đã nói chính là lẫn lộn giữa thánh và phàm, coi cả hai giống hệt như nhau, chớ nên nghe theo! Hễ nghe theo thì đừng nói là không được vãng sanh, ngay cả phước báo nhân thiên cũng chẳng ổn thỏa. Bởi lẽ, không có Cảm thì sẽ chẳng thể cậy vào Phật lực; nếu chỉ nhờ vào sức tu trì của chính mình thì so ra sự cơ cảm ấy sẽ khác xa vời vợi sự cơ cảm do lòng Thành tạo nên! (...)

 

(Thư thứ mười một) Thư nhận được đầy đủ, vui mừng, an ủi tột bực. Nay gởi một gói Tịnh Nghiệp Chỉ Nam. Cuốn Tâm Kinh Khẩu Nghĩa được in ở Thượng Hải chính là theo nguyên bản của cư sĩ Đường Đại Viên. Bản do cư sĩ Trần Chánh Hữu thuộc Thiên Tân Lưu Thông Xứ đứng ra in đã được Quang sửa chữa đại lược, so với nguyên văn của ông ta thì thông suốt hơn. Xin hãy thỉnh từ Phật Kinh Lưu Thông Xứ. Văn Sao đã được in; sách sẽ được giao ra vào ngày hai mươi mấy và sẽ gởi đến những người chịu trách nhiệm in.
Tôi vốn muốn qua Thượng Hải vào cuối tháng Tư để sắp xếp in Đại Sĩ Tụng, nhưng về sau có chuyện phải trì hoãn, lại thêm phong trào [đình công của công nhân] đang sôi nổi; phải đợi khi phong trào lắng xuống mới đi được. Sẽ ra sách trong năm sau. Đây là dự tính đem in trong thời gian gần. Nếu nhất thời chẳng bình yên được, càng chẳng biết sẽ phải trì hoãn bao nhiêu lâu nữa! Thư của Hàn Giang trong phần ký tên ở cuối thư chỉ viết là “cẩn thượng” (kính trình), trước đấy Quang chưa đọc kỹ, đến khi đã phúc đáp rồi mới trông thấy nên phê vào cuối thư. Ông ta chẳng những không biết Phật pháp mà ngay cả những lối cư xử thông thường cho đẹp lòng người trong thế gian cũng chẳng hiểu biết. Hỏi Phật pháp với người khác mà ngạo nghễ như thế, há người như vậy có thể đạt được lợi ích chân thật nơi Phật pháp ư? Cũng chẳng qua là góp phần náo nhiệt mà thôi!
Ông ta tính tự đặt pháp hiệu là Thiện Căn, Quang đặt tên cho ông ta là Huệ Hải. Đấy chẳng phải là đặt pháp danh quy y cho ông ta vì ông ta chẳng xin quy y. Dẫu có xin cũng không chấp nhận, vì tâm ông ta chẳng chịu nhún nhường, cho nên không thật tình quy y! Phàm thư từ gởi đến, mặc cho người gởi ngạo nghễ như thế nào Quang đều trả lời, đáng quở trách thì quở trách, hễ cần phải nói thẳng thì chẳng cần biết người ta có cung kính hay không [cứ nói thẳng]! Nếu ai gởi thư xin quy y mà chẳng chịu nhún mình bèn cự tuyệt chẳng chấp nhận. Cũng có người gởi thư khẩn cầu lần thứ hai, nhưng cũng có kẻ chẳng trả lời thư Quang gởi đến nữa! Lễ giáo suy vi đáng than thở thay!

VZ112255

Ảnh: Tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh nguyên khối tại chùa Phật Tích, Bắc Ninh, có niên đại từ thời nhà Lý.

Đoạn đầu: Có thể nói là mẹ ông đã có thiện căn từ đời trước, nên mới được cả nhà ông niệm Phật [hộ niệm lúc cụ lâm chung]. Nếu những lời ông kể về các tướng trạng lúc cụ sắp mất và sau khi đã qua đời đều là chân thật chẳng dối thì chắc chắn cụ được vãng sanh...

Ngay từ ban đầu các cụ đây đều chưa biết gì về đạo, rồi chưa thể ăn chay, chưa có được Tín tâm đối với Pháp môn, nhưng dần dần với sự cảm hóa, khuyên nhũ, nổ lực kiên trì của con cái mà các cụ đã dần biết tu trì, biết ăn chay, niệm Phật, phát sanh Tín Nguyện niệm Phật cầu sanh Cực Lạc, cho đến lúc mạng chung được vãng sanh thù thắng. Cho nên phận làm con cái phải lấy điều này làm đầu, bên cạnh việc phụng dưỡng thông thường của thế gian, như thế mới gọi là trọn chữ hiếu vậy. Đây chính là cái cách 'trọn hết bổn phận' cho bậc cha mẹ, ông bà, người thân nói chung một cách chân thật rốt ráo nhất vậy. So với cách giúp người ngoài được thành tựu thì giúp cho cha mẹ, người thân được giải thoát càng thù thắng hơn bội phần, chứ chẳng phải là ngang nhau đâu nhé. Mọi người hay lầm lẫn chỗ này, nói giúp ai cũng được, miễn là họ được vãng sanh thì công đức, ý nghĩa như nhau, bởi chúng sanh là bình đẳng mà! Dạ vâng, đồng ý rắng chúng sanh là bình đẳng, nhưng nếu giúp được cha mẹ, người thân vãng sanh thì khả năng cao là hành giả cũng được cái kết quả [tu trì] của mình cũng sẽ thành tựu như vậy trong đời này, còn khi giúp người ngoài được thành tựu thì sao? Chưa chắc có được như thế đâu, mà cái nhân duyên đó có thể sẽ trổ ngay trong đời này hay những đời sau gì đó không biết, cho nên nói nếu so về sự thù thắng, chân thật trong đời thì không thể bằng giúp đỡ, trợ duyên cho cha mẹ, người thân được thành tựu, nói chung là chẳng thể sánh được. Còn vì sao lại như vậy thì nói ra sẽ dài dòng văn tự không tiện bàn ở đây. Bởi thế nên thế gian mới có câu 'Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ hơn là đi tu', dĩ nhiên đây là ý nói cho hàng tại gia [cự sĩ]. Bởi vậy những ai hành giả nào mà giúp được cha mẹ vãng sanh tức là đã góp phần không nhỏ để thành tựu [cho mình] rồi đấy và cả ngược lại, còn như trường hợp con cái chưa phát tâm thì không bàn.

Đoạn tiếp: Chỉ nên dốc hết sức tu trì để cha mẹ chưa được vãng sanh sẽ lập tức được vãng sanh, đã vãng sanh sẽ tăng cao phẩm vị. Đấy mới là nhiệm vụ trọng yếu nhằm trọn hết tấm lòng của kẻ làm con đối với cha mẹ; những chuyện khác đều nhằm làm inh tai rộn mắt thế tục mà thôi!

Sau khi cha mẹ quá vãng, bất luận là được vãng sanh hay không, điều quan trọng là bản thân phải dốc sức tu trì và hồi hướng công đức cho người quá vãng, bởi nếu đã vãng sanh thì sẽ giúp tăng trưởng phẩm vị, còn nếu chưa vãng sanh thì có thể nương nhờ công đức ấy mà họ phát tâm cùng tu cùng được giải thoát hay thậm chí có thể được Phật rước ngay trong 49 ngày, nếu cha mẹ có sẵn túc căn cùng sự chí thành đủ mạnh từ con cái [để cảm được Phật từ lực]. Còn không thì chí ít cũng giúp cha mẹ, người thân siêu thoát về cõi lành, tránh rơi vào đường dữ vậy. Còn những lễ nghi, phong tục này kia của thế gian xưa giờ thì không phải chúng ta không quan trọng hay phế bỏ mà là chỉ làm trong khả năng, đừng nên cố phô trương, miễn là thể hiện được sự tôn kính, trang trọng, không được làm kiểu qua loa, chiếu lệ, thiếu sự thành kính. Dĩ nhiên là tuyệt đối không nên sát sanh hại vật hay rượu thịt để đãi đằng này kia theo họ, như thế rõ ràng chỉ làm tổn hại người khuất mà thôi.

Tiếp theo: Cha ông tuổi đã cao, hãy gấp dốc sức khuyên cụ siêng tu để khỏi kém sút mẹ ông. Đời người chuyện gì cũng có thể nhường người khác được, chỉ có chuyện này chẳng thể nhường ai! Vì thế, Khổng Tử nói: “Đương nhân bất nhượng ư sư” (Gặp việc nhân thì phải làm, dẫu thầy mình cũng không nhường).

Rõ ràng việc tu trì càng tinh tấn thì càng mang lại lợi lạc cho mình cho người, từ thân đến sơ, từ gần đến xa, cho đến khắp Pháp giới chúng sanh đều được lợi. Cho nên càng tinh tấn càng tốt, miễn là phải tu cho đúng, chứ còn tu không đúng, hay lầm đường lạc lối, thì càng tu thì càng gây tổn mình hại người. Cho nên trong gia đạo mà có người tu tập rồi được thành tựu vãng sanh [đặc biệt là được tự tại vãng sanh hay biết trước ngày giờ vãng sanh] sẽ giúp ích rất nhiều cho con cháu, người thân còn lại. Vì sao? Vì rõ ràng họ đã tu đúng đường đúng lối, đúng cách thức, con cháu có thể nhìn theo đấy mà tu học, và đặc biệt là giúp con cháu phát khởi Tín tâm chân thật, rằng cha mẹ tu như thế rồi được thành tựu như thế thì mình tu theo vậy thì chắc chắn cũng sẽ được như vậy, đây chính là một 'lời khai thị' không thể tuyệt vời hơn, nếu giữ đúng tâm niệm này mà tu trì đến cuối đời, không ai không được thành tựu cả. Nhưng vấn đề là theo thời gian, cái tâm ý này có còn đủ mạnh, có còn giữ vững nhưng lúc ban đầu hay không mà thôi.

Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc và học tập.

 

Văn Sao Tam Biên, quyển 2

Thư trả lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (trích lục)

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.