Giáo Hóa Tùy Ý

NPSTD7

 

Giáo Hóa Tùy Ý

Chánh kinh:

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, cứu cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ kỳ bổn nguyện, vị chúng sanh cố, bị hoằng thệ khải, giáo hóa nhất thiết hữu tình, giai phát tín tâm, tu Bồ Đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sanh tha phương thế giới, vĩnh ly ác thú, hoặc nhạo thuyết pháp, hoặc nhạo thính pháp, hoặc hiện Thần Túc, tùy ý tu tập, vô bất viên mãn. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi rốt ráo ắt đạt bậc Nhất Sanh Bổ Xứ, ngoại trừ [những người có] bổn nguyện vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ, giáo hóa hết thảy hữu tình khiến cho họ đều phát tín tâm, tu Bồ Ðề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sanh trong thế giới phương khác, nhưng vĩnh viễn thoát khỏi đường ác, hoặc thích thuyết pháp, hoặc thích nghe pháp, hoặc hiện Thần Túc, tùy ý tu tập không gì chẳng viên mãn. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện ba mươi lăm: Nhất Sanh Bổ Xứ; nguyện ba mươi sáu: Giáo hóa tùy ý)

Giải:

(...)

Kế đó là nguyện ba mươi sáu: “Giáo hóa tùy ý”. Như lời nguyện ba mươi lăm đã nói: Kẻ sanh về cõi ấy, ở yên trong cõi vui sướng, đều đạt địa vị Bổ Xứ, thành Ðẳng Chánh Giác, nhưng mỗi vị Bồ Tát thành Phật đều có nguyện lực. Chẳng hạn như nếu có thệ nguyện mặc giáp hoằng thệ, trở vào uế độ lợi khắp quần sanh, giáo hóa hữu tình thì họ sẽ được nguyện lực của Phật Di Ðà gia trì để tùy ý giáo hóa, không điều gì chẳng được viên mãn. Ðấy chính là ý nghĩa của nguyện ba mươi sáu.

“Khải” (鎧) là áo giáp, tức vật dụng được các chiến sĩ thời cổ khoác vào khi giao chiến để bảo vệ thân thể, chống lại tên, đá v.v... (áo chống đạn thời nay cũng là một loại giáp). Bồ Tát vào trong sanh tử hàng phục ma quân thì lấy thệ nguyện sâu rộng của chính mình làm giáp trụ. Do cái tâm hoằng thệ cứng rắn hơn sắt đá nên có thể dùng tâm ấy xông vào trận sanh tử.
Với những kẻ được giáo hóa, kinh nói “giai phát tín tâm” (đều khiến [cho các hữu tình] phát tín tâm); ấy là do tín tâm là nguồn đạo, là mẹ của công đức vậy.
Bản Tiểu Bổn kinh này nói: “Vị chư chúng sanh, thuyết thị nhất thiết thế gian nan tín chi pháp” (Vì các chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó thể tin nổi này). Ðó là vì pháp môn Tịnh Ðộ cực viên, cực đốn, siêu tình ly kiến nên Tịnh Ðộ là pháp mà hết thảy thế gian khó tin tưởng được nổi. Kinh Tiểu Bổn còn chép: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh” (Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Ðức Chẳng Thể Nghĩ Bàn, Ðược Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này) và: “Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết” (Các ông đều nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói). Do đó, bậc Ðại Sĩ cõi Cực Lạc khi hoằng hóa trong thập phương đều lấy việc phát khởi lòng tin làm đầu.
Do ba bậc vãng sanh đều phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm nên câu “tu Bồ Ðề hạnh” gồm hai ý nghĩa trọng yếu: Phát Bồ Ðề tâm và chuyên niệm. Tu Bồ Ðề đại hạnh ắt phải do phát khởi Bồ Ðề đại tâm, mà trong Bồ Ðề hạnh thì nhất hướng chuyên niệm là quan trọng bậc nhất. Hết thảy Bồ Tát tu trọn muôn điều lành, nhưng các vị Bồ Tát trong Thập Địa, dù ở địa vị nào vẫn chẳng hề rời bỏ việc niệm Phật.
Hơn nữa, Phổ Hiền Bồ Tát là bậc nhất trong các vị đại hạnh Bồ Tát, nên phải giáo hóa hết thảy hữu tình “hành Phổ Hiền đạo”. Khuê Phong đại sư giảng chữ Phổ Hiền như sau: “Một là xét trên tự thể: Thể tánh trọn khắp là Phổ, tùy duyên thành đức là Hiền. Hai là xét trong các địa vị thì trọn khắp tất cả không sót là Phổ, gần bằng với bậc đại thánh (Phật) là Hiền. Ba là xét về đương vị (địa vị đang chứng đắc): Đức không gì chẳng trọn vẹn là Phổ; điều phục, hòa nhã, thiện thuận là Hiền”. Vì vậy, trong kinh này, các vị đại Bồ Tát cùng đến tham dự pháp hội đều tuân tu đức hạnh của Phổ Hiền Đại Sĩ. Phổ Hiền đức chính là mười đại nguyện vương dẫn dắt về Cực Lạc, là đức tự lợi lợi tha chẳng có cùng tận. Ðại Sĩ cõi Cực Lạc chính mình đã tu hành Phổ Hiền hạnh đức lại còn dạy chúng sanh cõi khác cùng thực hành Phổ Hiền đạo.

Các vị Ðại Sĩ như vậy của cõi Cực Lạc mặc giáp hoằng thệ, vào trong biển sanh tử, “tuy sanh tha phương thế giới” (tuy sanh trong những thế giới ở phương khác) hoặc hiện thân trong uế độ, nhưng được nguyện lực của Phật Di Ðà gia trì nên “vĩnh ly ác thú” (vĩnh viễn thoát khỏi ác đạo). Mỗi vị tùy theo ý mình thích mà thuyết pháp, hoặc nghe pháp, hoặc hiện thần thông v.v... “tùy ý tu tập” đều được viên mãn. Chúng sanh được họ giáo hóa cũng đều chí tâm tin ưa, cầu sanh Tịnh Ðộ, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm.

 

GHTY 115

Ảnh minh họa: "Bấy giờ, Phật bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất: “Từ đây tới phương Tây, trải qua mười vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc. Trong cõi đó, có đức Phật hiệu A Di Đà, hiện đang nói pháp.” “Xá Lợi Phất, vì sao cõi đó tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh trong cõi nước đó không có những sự khổ, chỉ thọ hưởng các điều vui, nên cõi đó tên là Cực Lạc."

(Kinh A Di Đà bằng tranh)

Chúng ta tiếp tục đoạn Kinh văn trên với phần trích lục chú giải của các Ngài dành cho Nguyện 36 "Giáo hóa tùy ý". Nguyện này nói về các vị trên cõi ấy đi giáo hóa khắp nơi thì đều được "Giáo hóa tùy ý". Đó là do nhờ nương oai lực Bổn Nguyện để đi muôn nơi, tùy ý độ sanh, nên được như vậy. Sức oai thần của Bổn Nguyện thù thắng như vậy đấy, ngoài việc này ra còn có các việc như: Giúp chúng sanh cõi ấy tu tập đến viên mãn thành Phật đạo; và dĩ nhiên phần việc quan trọng vào bậc nhất đó chính là giúp chúng sanh tất cả các căn cơ [đa phần là phàm phu] khắp thập phương được vân tập về đó cái đã, bởi đây là bước quan trọng nhất trong các việc độ sanh này kia vậy. Cho nên hành giả chúng ta muốn đời này được về cõi ấy cho hết khổ, vĩnh viễn liễu thoát sanh tử, thì hãy "nương oai lực Bổn Nguyện" này để được sanh về nhé! Còn ai cứ 'cứng đầu' chẳng chịu 'nương', cứ cho ta đây là giỏi này kia, có thể 'tự túc' được thì cứ tùy ý vậy, nhưng coi chừng có ngày [không xa] sẽ hối không kịp đấy! Đây là sự thật, chẳng phải đe dọa gì đâu!

Chúng ta đọc phần chú giải trên để nắm thêm kiến thức, ở đây không cần luận nhiều. Chỉ nói thêm chút chỗ giáo hóa "tùy ý" là như thế nào? Tức là các Ngài trên đó khởi ý niệm đi độ sanh ở một quốc độ nào đó, để nhắm đạt một mục đích nào đó. Ví dụ, để giúp chúng sanh nơi đó, khu vực đó được gia duyên với Phật pháp, với Pháp môn Tịnh Độ, hay đơn giản chỉ là giúp họ tin sâu nhân quả, kiêng các điều ác, vâng làm các điều lành; hoặc ra sức hoằng truyền Chánh Pháp, giúp chúng sanh được đại lợi ích, dưới nhiều hình thức như: giảng Kinh thuyết pháp, lập Đạo tràng, xây chùa, hay viết sách, trước tác, lưu truyền Kinh điển... hay đơn giản chỉ là thị hiện thân giáo làm biểu pháp để lại cho hậu thế noi theo học tập v.v... Vậy liệu việc giáo hóa hay độ sanh này lúc nào cũng được 'thuận buồm xuôi gió' hay viên mãn cả không? Dạ dĩ nhiên là không rồi, đã vào 'trận địa sanh tử' thì chẳng 'dễ xơi' chút nào đâu, cho dù được gia trì trợ lực đi nữa, thậm chí dù "mặc áo giáp" đi nữa cũng bị 'sứt đầu mẻ trán' hay 'lên bờ xuống ruộng' là chuyện bình thường, bởi như vậy mới là 'độ sanh'. Chứ độ sanh mà toàn như 'cưỡi ngựa xem hoa' không thì sao mà độ được, phải dốc 'cạn lòng thành, tận lòng kính' còn chưa ăn thua nữa là... Các thế lực [tà ma, ngoại đạo] hẫy hừng kiên cố ra thế, bộ các vị ấy 'đứng khoanh tay' để cho các Ngài muốn làm gì thì làm được sao?! Nói chung là việc giáo hóa thì "tùy ý", nhưng vấn đề thành tựu viên mãn [tâm nguyện ban đầu] được đến đâu thì còn tùy, có vị sẽ đạt viên mãn trọn vẹn, có vị sẽ được một nửa, có vị còn thấp hơn, do những điều kiện nhân duyên bất đồng. Rõ ràng, với việc độ sanh, đặc biệc với Pháp môn này, không phải 'cứ muốn là được' mà là chỉ cố gắng tốt nhất, nhiều nhất có thể mà thôi, bởi còn tùy thuộc Thiện căn phước đức nhân duyên của chúng sanh nữa vậy.

Chúng ta cùng dành chút thời gian để tiếp tục bàn về phần việc quan trọng bậc nhất trên 'đường về Cực Lạc' của hành giả Tịnh Độ chúng ta. Dạ vâng, chắc chắc đó là việc gầy dựng Tín Nguyện tâm, chuyên cần niệm Phật. Bên trên ta vừa nhắc đến chỗ 'nương oai lực Bổn Nguyện' [thì ắt siêu vượt Tam Giới, vãng sanh Cực Lạc]. Trong Kinh Phật thuyết rằng:

"Như vậy nhất tâm cầu Tịnh Độ

Giả sử lửa cháy khắp ba ngàn

Nương oai đức Phật tất siêu việt

Quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc"

Chúng ta thấy, "nương oai đức Phật" thì dẫu "lửa cháy khắp ba ngàn" còn siêu vượt qua được rồi về Cực Lạc với Phật, huống hồ những nghiệp lực này kia khác của chúng sanh, không lẽ Phật không đủ sức giúp chúng ta vượt qua được mà theo Phật trở về chăng?! Nếu ai còn chưa 'ngộ' ra điều này, hãy còn 'chấp' vào những tri kiến này kia, mà cho rằng điều này còn chưa chắc, rồi 'phải' thế này thế nọ thế kia... như thế thì đúng như Chư Tổ Sư các Ngài hay nói là 'dùng trí phàm đi suy lường thánh giải', tức 'thế trí biện thông' [thì tăng thêm tà kiến]. Lời Kinh Phật thuyết thì không tin theo, đi tin theo những kiến giải này kia! Thôi kệ, nghiệp duyên mỗi người, biết sao được... 'bụng làm thì dạ chịu' thôi vậy!

Có chỗ cần sáng tỏ một chút, chỗ "nhất tâm cầu Tịnh Độ" nghĩa là sao? Tức là công phu niệm Phật phải Nhất tâm bất loạn mới được ư? Dạ đúng, nhưng chưa đủ! Nếu chỉ có vậy thì phàm phu chúng ta làm sao đây? Mà các Ngài đều nói Pháp này vốn để cứu độ hàng phàm phu đây cơ mà [kiêm luôn bậc Thánh nhân]? Dạ vâng, chắc chắc đó sẽ là "nhất tâm tin tưởng", rồi chân thật niệm Phật cầu sanh về [dùng Tín Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật]. Như vậy thì mới là Pháp khế lý và đặc biệt là khế cơ trong thời Mạt này, mà cũng thỏa bổn hoài cứu độ chúng sanh của Chư Phật khắp thập phương [đều đồng thanh tán thán]. Còn cái việc 'nương' đó là gì, thế nào là 'nương'? Điều này chúng ta đã luận bàn quá nhiều rồi, nếu cần thì tìm đọc lại các bài, ở đây không nhắc lại nữa. Chư Phật, Chư Tổ đã trao cho chúng ta một 'phương cách' chắc chắn tối thượng như vậy rồi để chắc chắn được sanh về, mà chúng ta chẳng chịu ra sức học tập nữa thì thôi [chẳng biết nói sao]!

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.