Chánh kinh:
Sở cư xá trạch, xứng kỳ hình sắc. Bảo võng di phú, huyền chư bảo linh, kỳ diệu, trân dị, châu biến hiệu sức, quang sắc hoảng diệu, tận cực nghiêm lệ. Lâu, quán, lan thuẫn, đường, vũ, phòng, các, quảng hiệp phương viên, hoặc đại, hoặc tiểu, hoặc tại hư không, hoặc tại bình địa, thanh tịnh an ổn, vi diệu khoái lạc, ứng niệm hiện tiền, vô bất cụ túc.
Nhà cửa họ ở đều tương xứng với hình sắc. Lưới báu trùm khắp, treo các linh báu kỳ diệu, quý lạ, trang hoàng trọn khắp, quang sắc chói lòa, trang nghiêm đẹp đẽ đến cùng cực. Lầu, quán, lan can, đường vũ, phòng, gác: rộng, hẹp, vuông, tròn, dù lớn hay nhỏ, hoặc ở trên không hay trên mặt đất đều thanh tịnh an ổn, vi diệu, khoái lạc, ứng theo tâm niệm mà hiện ra trước không thứ gì chẳng đầy đủ.
Giải:
Ðoạn kinh nói về việc thụ dụng chỗ ở một cách đầy đủ.
“Xá trạch” (舍宅: nhà cửa) là nơi để ở, tục thường gọi là “túc xá, trú trạch”. Sách Hội Sớ giảng chữ “hình sắc” trong câu “xứng kỳ hình sắc” (tương xứng với hình sắc) như sau: “Hình (形) là thân lớn hay nhỏ; sắc (色) là xanh, vàng, đỏ, trắng”. (...)
“Bảo võng” (寶網) là lưới do các viên bảo châu kết thành. “Di phú” (彌 覆) là phủ kín. “Bảo linh” (寶 鈴) là các loại phong linh (windchime) do các thứ trân bảo tạo thành, gió thổi qua liền phát ra những âm thanh vi diệu. “Kỳ diệu trân dị” là lạ lùng, đặc sắc, đẹp đẽ, tinh xảo, quý báu, hiếm lạ. Câu kinh này khen ngợi sự thù thắng của các thứ báu hợp thành lưới và linh. “Châu biến” (周徧) nghĩa là khắp tất cả không sót chỗ nào. Sách Hội Sớ giảng chữ “hiệu sức” (校飾) như sau: “Bày xen lẫn nhau để tô điểm”. “Hoảng diệu”: Hoảng (晃) là sáng, tỏa rạng; Diệu (曜) là chiếu soi. Như trên đã nói, trong mỗi quang minh có nhiều màu, mỗi màu lại tỏa nhiều quang minh, chiếu rọi lẫn nhau nên bảo là “quang sắc hoảng diệu” (quang sắc chói ngời). “Nghiêm lệ”: “Nghiêm” (嚴) là trang nghiêm; “lệ” (麗) là đẹp đẽ. (...)
Mỗi kiến trúc lớn, nhỏ, cao, thấp “hoặc tại hư không, hoặc tại bình địa” (hoặc ở trên không hay trên mặt đất) đều vừa ý người ở, hễ nghĩ đến liền hiện ra như bản Ngô dịch chép: “Sở cư thất bảo xá trạch, trung hữu tại hư không trung giả, hữu tại địa giả. Trung hữu dục linh xá trạch tối cao giả, xá trạch tức cao. Trung hữu dục linh xá trạch tối đại giả, xá trạch tức đại. Trung hữu dục linh xá trạch tại hư không giả, xá trạch tức tại hư không trung. Giai tự nhiên tùy ý, tại sở tác vi” (Sống trong nhà cửa bằng bảy báu; trong những nhà cửa ấy, có cái ở trên hư không, có cái trên mặt đất. Nếu người sống trong ấy muốn nhà cửa thật cao thì nhà cửa liền cao lên. Kẻ sống trong đó muốn nhà cửa thật to thì nhà cửa liền to ra. Kẻ sống trong ấy muốn nhà ở trên hư không thì nhà cửa liền ở trên hư không. Hết thảy đều tự nhiên biến hiện theo ý muốn). Như vậy, hình dáng, màu sắc, kích thước của nhà cửa nơi cõi ấy, dù ở trên hư không hay trên mặt đất, mỗi mỗi đều thuận ý người, ứng hiện theo ý nghĩ.
Bản Ðường dịch cũng ghi: “Ư chúng sanh tiền, tự nhiên xuất hiện. Nhân giai tự vị các xử kỳ cung” (Tự nhiên xuất hiện trước chúng sanh, ai nấy tự cho là mình ở trong cung điện ấy). Do chúng sanh vô lượng nên có vô lượng cung điện, dung nhập lẫn nhau, dù đây hay kia cũng chẳng hề trở ngại, thật là đã hiển thị rõ pháp giới sự sự vô ngại.
Sách Hội Sớ giảng câu “thanh tịnh an ổn, vi diệu khoái lạc” như sau: “Không có Ngũ Trược nên thanh tịnh; không biến đổi nên an ổn, ngay đến từng hạt bụi cũng đã là chẳng thể nghĩ bàn nên vi diệu. Vĩnh viễn xa lìa nỗi khổ não nơi thân tâm nên khoái lạc”.
Lại theo Vãng Sanh Luận, tất cả điều trên đều từ một thanh tịnh cú biến hiện nên bảo là “thanh tịnh”. Các vật thụ dụng chẳng thể nghĩ bàn trên đây đều ứng theo tâm niệm lập tức hiển hiện nên bảo là “ứng niệm hiện tiền” (ứng theo tâm niệm mà hiện ra trước mặt). Các vật thụ dụng viên minh cụ đức không thiếu, không dư nên bảo “vô bất cụ túc” (không thứ gì chẳng đầy đủ).
Ảnh minh họa: "Lại này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong đó. Ðáy ao toàn trải cát bằng vàng. Thềm đường bốn phía do các thứ vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Bên trên có lầu có các, cũng dùng đủ loại vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang sức"
Đây tiếp là đoạn nói về những y báo nơi cõi Cực Lạc, những đoạn trước là nói về cái ăn, cái mặc, và giờ là đến 'nhà cửa'. Thật sự những nhu cầu ăn, mặc, nơi ở, sinh hoạt, tất cả đều là những nhu cầu phương tiện thiết yếu của người tu đạo, dù ở nơi đâu. Chúng ta đọc đoạn Kinh văn này cùng chú giải của các Ngài để biết rõ hơn về cuộc sống của nhân dân cõi ấy ra sao, rằng nó vi diệu thù thắng thế nào! Còn chúng ta ở đây, để tìm một nơi an ổn để hành đạo thật sự chẳng phải dễ dàng gì, phải có phước báu lớn mới mong có một nơi yên ổn để tu tập hành đạo, còn không thì không dễ có được đâu, mà thời cuộc càng về sau thì càng khó khăn phức tạp hơn nữa. Cho nên, tu cõi này phải học cách kham nhẫn, phải học cách 'sống chung với lũ', rằng 'chuyển phiền não thành Bồ Đề', giống như hoa sen vậy, sống trong bùn lầy, lấy những chất dơ bẩn làm thức ăn để nuôi lớn thân cây, rồi tới ngày khoe sắc tỏa ngát hương hoa.
Đoạn Kinh văn "Lầu, quán, lan can, đường vũ, phòng, gác: rộng, hẹp, vuông, tròn, dù lớn hay nhỏ, hoặc ở trên không hay trên mặt đất đều thanh tịnh an ổn, vi diệu, khoái lạc, ứng theo tâm niệm mà hiện ra trước không thứ gì chẳng đầy đủ" miêu tả khá chi tiết cảnh sắc nơi cõi ấy. Trên đó thì có khi nhà ở trên mặt đất, có khi nhà treo lơ lững trên không trung, có cái lớn có cái bé, rộng hẹp vuông tròn... nói chung tùy ý chúng sanh mà ứng hiện ra theo ý thích, muốn thay đổi ra sao thì thay đổi, chứ chẳng phải nhọc công 'đập đi xây lại' như ở đây đâu! Có chỗ này rất hay rất thù thắng, đó là "đều thanh tịnh an ổn, vi diệu, khoái lạc...", tức là nhà cửa cũng là phương tiện để hộ pháp đích thực luôn, giúp cho hành giả được cảm giác thân tâm trở nên an lạc, đoạn trừ sạch phiền não [khoái lạc], chứ chẳng phải chỉ có đẹp đẽ trang nghiêm này kia không thôi, nói chung là một vẻ đẹp kiến trúc để giúp an dưỡng thân tâm an lạc mà hành đạo chứ không gây tham luyến, chiếm hữu như kiểu vẻ đẹp ở đây. Nói chung là tất cả cảnh vât, hình sắc ở đó đều như vậy, rất trang nghiêm, rực rõ, nhưng lại không gây tham luyến [sắc, dục], chỉ tạo cảm giác thanh tịnh, an lạc, mát mẻ...
Cho nên muốn về cõi ấy cần có nhiều công đức không? Dĩ nhiên là có, Phật đã nói "không thể dùng chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên...". Vậy bao nhiêu cho đủ [công đức, phước báu] đây? Một niệm, mười niệm là đủ? Bởi một niệm A Di Đà Phật đã là Vô thượng công đức rồi cơ mà? Dạ rằng, vấn đề không đơn thuần là vậy đâu! Vấn đề này chúng ta đã nói rất nhiều lần rồi, vấn đề là một niệm, mười niệm này phải đầy đủ Tín Nguyện, thì lúc đó mới là Vô thượng công đức, tức có thể xem là đầy đủ Thiện căn, phước đức, nhân duyên. Mà muốn có Tín Nguyện tâm đầy đủ thì phải ra sức tu tập, gầy dựng, tích lũy, hành trì nghiêm túc, chân thật trong thời gian dài ngắn nhất định nào đó thì mới có được, chứ chẳng phải muốn có ngay là có được đâu. Chỉ trừ trường hợp hạng bét lâm chung mới bắt gặp Chánh Pháp, trong một hoàn cảnh nhân duyên đặc thù như thế, cộng với túc căn sâu dày từ trước, nên mới phát khởi lên được Tín Nguyện tâm chân thật đầy đủ, rồi niệm một vài tiếng gì đó là được Phật đến tiếp dẫn về. Đây rõ ràng là những trường hợp rất hy hữu trong hy hữu mà thôi, tức từ thiện căn, phước đức có sẳn từ trước [túc căn sâu dày] lại gặp được nhân duyên thù thắng nữa, nên mới được như vậy, chứ nếu chỉ có mỗi túc căn không hay mỗi nhân duyên không thì cũng chẳng được gì, chẳng thể thành tựu được. Cho nên, thấy người ta tới gian đoạn gần cuối đời mới được khai thị, hộ niệm, rồi phát khởi Tín tâm, niệm Phật trong thời gian ngắn, rồi an tường ra đi vãng sanh thật thù thắng, để lại thoại tướng rất đẹp, thậm chí có ca còn được báo trước ngày giờ vãng sanh nữa, thấy như thế rồi cho rằng cứ từ từ cái đã, cứ rong chơi hay làm ăn, con cháu, thế sự gì đó cho thoải mái đi, đợi đến lúc cuối 'nằm một chỗ' hay không còn sức lực gì nữa thì lúc đó phát tâm tu cũng chưa muộn, cũng vãng sanh như thường đấy thôi. Đó là suy nghĩ sai lầm bậc nhất vậy! Bởi thứ nhất là vô thường biết đâu mà lần, nó đến có báo trước mình biết không, liệu còn lâu mau? Thứ nữa là như trên nói, đợi đến lúc cuối mới phát tâm mà vãng sanh được ấy là điều cực hiếm trong các sự hiếm, tức phải trùng hợp được mấy yếu tố hiếm hoi mới ra được vậy, chứ không dễ ăn chút nào đâu. Cho nên tuyệt không nên có tư tưởng chủ quan như thế! Hoặc giả có tư tưởng tu 'cầm chừng', đợi đến lúc cuối mới tu nghiêm túc, rốt ráo, tức là bình thời đây cũng ra sức dụng công hành trì, thời khóa này kia đều đặn đó, nhưng nghĩ đợi đến lúc cuối hãy 'buông xả vạn duyên' hay 'nhất tâm niệm Phật' gì đó rồi ra đi luôn, đây cũng là dạng chủ quan, tu ở thì tương lai, rằng 'sẽ', 'hy vọng', 'mong'... đạt được, nói chung dành hết gánh nặng vào tuổi xế chiều, lúc chân yếu, mắt mờ, tinh thần trí lực suy kiệt, trong khi nghiệp lực thì bị cộng dồn, dâng cao. Đây là tư tưởng rất thường thấy đối với các hành giả Tịnh Độ, nhất là theo các đường lối tự lực như gầy dựng công phu hay Pháp Hộ Niệm. Nguyên do là sao? Đó là do chẳng phải họ thiếu đạo tâm đạo lực gì đâu, mà là bình thời đây còn nhiều bổn phận phải gánh vác, chưa thể 'cất' xuống được [để gầy dựng công phu hay gì đó], hoặc giả có tâm lý ỷ lại vào Pháp Hộ Niệm lúc cuối, nên bây giờ chưa phải là lúc, rằng bình thời đây chỉ là 'luyện tập' thôi, đến lúc đó mới là 'chiến đấu' thật sự nên có những sự chủ quan nhất định như thế. Hoặc giả những hành giả theo đường lối Tín Nguyện niệm Phật cũng có tư tưởng chủ quan như vậy không ít, nghĩ rằng hãy còn năm rộng tháng dài, muốn gầy dựng Tín Nguyện tâm thì lúc nào mà chả được, hay là đợi đến gần gần cuối đã rồi hãy gầy dựng, bây giờ cứ là phải 'trọn hết bổn phận' hay thậm chí thoải mái ăn chơi thế sự này kia cái đã, bởi Pháp này 'dễ lắm', chỉ cần tin là sẽ được Phật rước mà! Dạ vâng, dễ lắm, dễ đi xuống Tam đồ, Địa ngục đó, chứ về Cực Lạc thì không dễ dàng đến vậy đâu ạ! Bởi để có được cái niềm tin sâu, chẳng nghi đó chẳng hề đơn giản đâu! Rằng dạng tin kiểu nay tin mai ngờ, như thế thì rất dễ, nhưng để Tin sâu, không đổi là cả vấn đề phải học tập, gầy dựng, hành trì chân thật nghiêm túc trong thời gian dài chứ chẳng đơn giản đâu. Bởi Phật đã nói là Pháp khó tin [tức tin sâu, chẳng nghi] thì chắc chắn phải là như vậy. Tức là sao? Tức là dạng thường thường bậc trung như chúng ta để đạt được điều đó thì chắc chắn không dễ, tức là phải trải qua một thời gian dài, hành trì học tập nghiêm túc, áp dụng đúng cách thức, đường lối, như thế mới hy vọng có được. Còn dạng Thượng căn thượng trí hay Thánh nhân cũng không phải ai cũng đạt được, mà cũng phải tu tập đúng pháp đúng đường lối gặp đúng nhân duyên mới được, còn không cũng chẳng được. Cho nên, chúng ta không được chủ quan là vậy. Được cái là với đường lối này thì chúng ta có thể học tập, gầy dựng ngay từ lúc bình thời này, mà không gặp phải những vấn đề lớn như các pháp kia, tức vừa lo tròn bổn phận với thế gian vừa tu học, gầy dựng, hành trì, chẳng cần phải buông xuống vạn duyên hay phải nhất tâm niệm Phật, hay lo sợ bị 'xen tạp, gián đoạn' gì cả như các pháp kia. Cho nên gọi cái Pháp này vừa khế lý vừa khế cơ là vậy, hay thường nói là 'phổ độ chúng sanh' đó chính là cái Pháp này. Rồi một khi gầy dựng được Tín Nguyện tâm vững vàng, chân thật đầy đủ rồi thì muốn mở mang tu tập như thế nào thì tu, gầy dựng công phu, tu tập công đức, phẩm hạnh, lợi lạc chúng sanh gì đó mặc sức mà làm.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 19. Thụ Dụng Cụ Túc (trích lục)
Ngài Hoàng Niệm Tổ