Không Có Bốn Mùa, Nóng, Lạnh, Mưa, Tối Tăm Sai Khác; Lại Cũng Chẳng Có Sông, Biển Lớn Nhỏ, Gò, Đống, Hầm, Hố...

NPSTD7

 

Không Có Bốn Mùa, Nóng, Lạnh, Mưa, Tối Tăm Sai Khác; Lại Cũng Chẳng Có Sông, Biển Lớn Nhỏ, Gò, Đống, Hầm, Hố...

Chánh kinh:
Phật ngữ A Nan:
- Bỉ Cực Lạc giới vô lượng công đức, cụ túc trang nghiêm. Vĩnh vô chúng khổ, chư nạn, ác thú, ma não chi danh. Diệc vô tứ thời hàn, thử, vũ, minh chi dị. Phục vô đại tiểu giang, hải, khâu lăng, khanh khảm, kinh, cức, sa, lịch, Thiết Vy, Tu Di, thổ thạch đẳng sơn.
Phật bảo A Nan:
- Cõi Cực Lạc thế giới công đức vô lượng, trang nghiêm đầy đủ, vĩnh viễn không có các tên gọi các khổ, các nạn, đường ác, ma làm não loạn; cũng không có bốn mùa, nóng, lạnh, mưa, tối tăm sai khác. Lại cũng chẳng có sông, biển lớn nhỏ, gò, đống, hầm, hố, gai góc, cát, sỏi, Thiết Vy, Tu Di, các hòn núi đá hay núi đất.
Giải:

(...)

“Diệc vô tứ thời hàn, thử, vũ minh chi dị” (Cũng không có bốn mùa, nóng lạnh, mưa, tối tăm sai khác): Tứ thời là Xuân, Hạ, Thu, Ðông. “Hàn thử” (寒曙) chỉ tiết trời cực nóng, cực lạnh, “vũ minh” (雨冥) chỉ mưa gió đen nghịt. So với mười bảy thứ công đức trang nghiêm thành tựu của cõi Cực Lạc, câu này thể hiện công đức thứ ba, tức Trang Nghiêm Tánh Công Ðức Thành Tựu.
Sách Luận Chú giảng: “Tánh có nghĩa là gốc. Cõi Tịnh Ðộ đó tùy thuận pháp tánh, chẳng trái nghịch gốc pháp. Tánh còn có nghĩa là tất nhiên, chẳng biến đổi như tánh của biển là một vị, các dòng nước chảy vào biển đều trở thành một vị. Tánh của biển chẳng bị biến đổi theo các dòng nước kia vậy”.
Nay cõi Cực Lạc, xét về trời, chẳng có bốn mùa v.v… xét về đất, cũng chẳng có các tướng sông, biển, núi, hang, chỉ là một cõi đất mênh mông, bát ngát, phẳng phiu, thuần sắc vàng ròng. Người cõi ấy lại như sách Luận Chú bảo: “Những kẻ vãng sanh không ai chẳng được tịnh sắc, không ai chẳng được tịnh tâm, rốt ráo đều đắc thanh tịnh bình đẳng vô vi Pháp Thân”. Câu này chứa đựng mật ý: Tánh bình đẳng như đất, biển pháp một vị. Ðó là Trang Nghiêm Tánh Công Ðức Thành Tựu vậy.
“Phục vô đại tiểu giang, hải, khâu lăng, khanh khảm, kinh, cức, sa, lịch, Thiết Vy, Tu Di, thổ thạch đẳng sơn. Duy dĩ tự nhiên thất bảo, hoàng kim vi địa” (Lại chẳng có sông, biển lớn nhỏ, gò đống, hầm hố, gai góc, cát, sỏi, Thiết Vy, Tu Di, các hòn núi đá, núi đất v.v... Chỉ tự nhiên là bảy báu, vàng ròng làm đất): Không có biển, sông, Tu Di… là hiển thị tánh công đức thành tựu.
“Tu Di” (Sumeru) dịch là núi Diệu Cao, là trung tâm của một tiểu thế giới. Núi ấy do bốn báu hợp thành, nằm giữa đại hải, cao khỏi mặt nước ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. Mặt ngoài có chín ngọn núi, tám cái biển. Phía ngoại vi của núi Tu Di gọi là “Thiết Vy sơn” (Cakravāda). Ngay chính giữa đảnh núi Tu Di là chỗ ở của Ðế Thích Thiên, ba mươi hai vị trời khác ở khắp bốn mặt núi. Trời Tứ Thiên Vương ở lưng chừng núi. Bốn đại châu như Nam Thiệm Bộ châu v.v… ở quanh bốn mặt biển (Mặt trời xoay quanh núi Tu Di. Trước đây có người cho rằng núi Tu Di nằm ngay trên địa cầu thì thật là lầm lẫn lớn. Xét ra, ít nhất, Tu Di cũng là một thiên thể to bằng mặt trời. Nam Thiệm Bộ Châu chính là địa cầu.
Kinh dùng chữ “thủy” để chỉ những vật thể lưu chuyển, “hải” tức là chỗ tích tụ các vật thể lưu chuyển ấy, chứ nào phải là biển cả như thế gian thường hiểu).

 

tccb1

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Chúng ta tiếp tục với phần đoạn Kinh văn: "cũng không có bốn mùa, nóng, lạnh, mưa, tối tăm sai khác. Lại cũng chẳng có sông, biển lớn nhỏ, gò, đống, hầm, hố, gai góc..." trong Phẩm 11 Quốc Giới Nghiêm Tịnh. Chúng ta đọc đoạn chú giải của các Ngài để biết thêm kiến thức về nội dung này. Dĩ nhiên cõi Cực Lạc được tạo ra từ công đức, tánh đức của Phật thì không thể có những hình tướng như thế này được. Cõi uế độ này do nghiệp lực chúng sanh cảm thành cho nên mới có những hình dáng, âm thanh, sắc thái như vậy. Giống như cõi Địa Ngục cũng từ nghiệp lực chúng sanh biến hiện ra những cảnh giới ghê sợ như vậy thôi, hay các cõi Trời cũng từ những thiện nghiệp biến hiện ra các cảnh giới tươi đẹp như thế. Một đằng là nghiệp lực biến hiện ra, một đằng từ tánh đức [cùng công đức tích lũy tu tập] của Phật tạo nên, một đằng là vĩnh hằng mãi mãi bất sanh bất diệt, một đằng là giả tạm, biến đổi không ngừng [thành trụ hoại không], một đằng là Tịnh độ một đằng là uế độ...

Ở đây Phật có nói đến núi Tu Di, núi Thiết Vi, vậy các ngọn núi này ở đâu, sao ta chẳng nhìn thấy? Theo như các Ngài giải thích bên trên, "“Tu Di” (Sumeru) dịch là núi Diệu Cao, là trung tâm của một tiểu thế giới...", xung quanh núi ấy có bốn Châu, cõi Ta Bà đây là một Châu phía nam, gọi là Nam Thiệm Bộ châu. Cõi Ta Bà là gọi chung của Lục đạo ở đây [cũng có nơi gọi chung cho cả tiểu Thế giới này, là nơi giáo hóa của Phật Thích Ca Mâu Ni], bao gồm từ các cõi Trời cho đến quả Địa Cầu này rồi các cõi trong Tam Đồ ở đây, chứ không phải chỉ có quả Địa Cầu không thôi. Châu phía nam này [gọi là Nam Diêm Phù Đề] tuy sướng khổ gồm đủ cả, song so với các Châu kia thì khổ hạnh nhất, nhưng lại có căn duyên nhất với Phật Pháp, có thể giáo hóa được nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Ngài mới thị hiện tại đây để giáo hóa, độ thoát chúng sanh. Còn ví dụ bên kia núi Tu Di, phía đối diện là Châu Bắc Câu Lô cuộc sống quá an vui thọ mạng lâu dài nhưng lại không có sự cảm thọ nên Phật không thể giáo hóa ở đó.

Như vậy có thể hiểu núi Tu Di, Thiết Vi là ở trung tâm của Thái Dương Hệ này, trong đó xét về phương diện vật chất thì có Mặt trời soi sáng cùng các hành tinh như Trái Đất, sao Hỏa, sao Mộc... cùng các vệ tinh Mặt Trăng của chúng; còn về phương diện phi vật chất thì xung quanh là biển, bốn phía là bốn Châu, cõi Diêm Phù Đề của chúng ta ở phía nam. Cho nên theo ngu ý, xét ra thì các tầng Trời của cõi ta đây ở một mức độ [kích thước] rất nhỏ so với núi Tu Di, Thiết Vi thôi, chỉ trong phạm vi của châu phía nam thôi, chứ không thể so sánh đối chiếu với núi Tu Di được [ví dụ các Ngài giải thích bên trên là "Ngay chính giữa đảnh núi Tu Di là chỗ ở của Ðế Thích Thiên, ba mươi hai vị trời khác ở khắp bốn mặt núi. Trời Tứ Thiên Vương ở lưng chừng núi"]. Tức là núi Tu Di, Thiết Vi là trung tâm của tiểu thế giới này, còn các hành tinh, mặt trăng... ngay cả mặt trời cũng vốn nhỏ bé so với chúng; còn các tầng trời chỉ trong [phạm vi] hạn cuộc của mỗi hành tinh [nếu tồn tại sự sống, tức giai đoạn Trụ]. Còn lý do vì sao ta chẳng nhìn thấy gì và khoa học cũng chẳng nhận ra gì cả? Đơn giản là vì đó là những cảnh giới khác, phi vật chất, con người ta đây cùng khoa học kỹ thuật hay thiên văn vũ trụ chỉ là tìm kiếm những thực thể thuộc về vật chất, hiện tại chỉ giới hạn ở mức độ như vậy, như thế thì làm sao biết được phát hiện ra sự tồn tại của chúng, hay các chúng sanh, nhân dân khác [ví dụ ở gần nhất là Chư Thiên, Địa ngục, Ngạ quỷ... ở cõi này, hay xa hơn chút là nhân dân ở các Châu khác xung quanh núi Tu Di]. Mặc dù họ vẫn đang sinh sống tồn tại như chúng ta ở trái đất này vậy thôi. Đó chỉ là một tiểu Thế giới, rồi trung thế giới, đại thế giới, mỗi cái nhân lên ngàn lần, pháp giới có vô lượng vô biên đại thế giới như thế. Con ngưới ta đây thì cứ mãi miết đi tìm sự sống ngoài trái đất này, không biết có tồn tại sự sống nào khác hay không? Vậy mà rất nhiều những nhà khoa học vĩ đại, những bộ óc kiệt xuất nhất lại dám khẳng định rằng con người là độc tôn trong vũ trụ, rằng trái đất này là nơi duy nhất tồn tại sự sống trong vũ trụ bao la... Rồi có những học thuyết được cả thế giới công nhận, bắt mọi người phải học tập, nghe theo, như thuyết tiến hóa của Darwin, vụ nỗ Big bang... Họ cho rằng con người là được tiến lên từ loài vật, từ sơ cấp, thứ cấp, cao cấp rồi đến con người. Trong Kinh Phật dạy rằng, con người, con vật là các cảnh giới khác nhau, chúng sanh mang hình tướng gì đó là do nghiệp lực của họ cảm vời ra như thế, chứ chẳng phải từ cảnh giới này tiến hóa từ từ đến cảnh giới kia. Họ nói như thế là do không hiểu biết gì về nhân quả luân hồi trong lục đạo, nên mới cho ra những học thuyết như thế. Ví dụ một chúng sanh nếu không được giáo hóa có thể phải thọ nhận hàng triệu năm vẫn ở cùng một kiếp đó [thân đó] không thể thoát ra được. Còn chúng sanh mang hình hài sắc thái thế nào đó hoàn toàn là do nghiệp lực của họ cảm thành như vậy, sau mỗi lần thọ sanh, ví dụ có vị từ Chư Thiên [khi hết tuổi thọ] rớt thẳng xuống Địa ngục. Tất cả đó đều là nhân quả, nghiệp lực chi phối cả. Ví dụ như, trái đất sau một tỉ năm nữa đi, liệu có còn các loài sinh vật sơ khai, nhỏ bé, đơn bào gì đó hay không? Dạ thưa, vẫn y như bây giờ vậy, chẳng khác gì cả, tức vẫn tồn tại mãi những sinh vật từ thấp đến cao y như bây giờ vậy thôi, chẳng tiến hóa thêm được gì đâu [bởi đơn giản do nghiệp lực chúng sanh trải đều như thế, hạng nào cũng có], có chăng chỉ là sự thay đổi khác biệt chút ít trong từng kiếp sống mà thôi, ví dụ con người có thể cao lớn hơn hay nhỏ bé đi, chẳng hạn vậy.

Chúng ta luận bàn dông dài vài điều như vậy, vì gặp nhân duyên liên quan. Thật ra thì mục đích chúng ta học tập, tiếp cận các nội dung Kinh văn này, phần là để thêm kiến thức, hiểu biết, song quan trọng hơn đó là chúng ta được gần gủi Kinh văn, giống như gần ánh Thái Dương vậy, mọi vạn vật sẽ tươi sáng tốt đẹp, sinh sôi nảy nở. Hơn nữa việc gần gủi các Kinh điển Tịnh Độ cũng giúp chúng ta ngày càng thấu hiểu gần gủi hơn với thế giới Cực Lạc, rằng càng ngày càng [trong tâm ta] gần hơn với cõi Phật. Cho nên đối với việc phát khởi Tín tâm chân thật [được sanh về cõi ấy] không còn cảm thấy xa lạ mà thật gần gủi, chân thật và tự nhiên thôi, chẳng còn là việc xa vời hay khó khăn gì cả. Nói cách khác là chúng ta đang từng bước xóa tan đi khoảng cách giữa mình ở đây với cõi ấy vậy. Rằng một khi hết duyên cõi này thì nhất định [và đương nhiên] rằng chúng ta sẽ cùng hội ngộ trên cõi ấy mà thôi, không có gì là xa vời và cách trở cả vậy. Thật sự là, với Pháp môn này như các Ngài nói, vừa cực khó vừa cực dễ, hay nói cách khác là 'muốn dễ thì dễ muốn khó thì khó' vậy. Điều quan trọng là chúng ta đừng bị chi phối bởi những kiến giải này kia, bất luận đúng sai như thế nào, đừng chạy theo chúng, mà phải thế nào? Hãy nhìn thẳng vào Kinh văn Phật thuyết [tức Bổn Nguyện tiếp dẫn] mà phát khởi lên Tín tâm chân thật, chỉ nương tựa vào cái này, đừng bận tâm đến những cái khác, những cái này chỉ gói gọn trong vài chữ vài từ thôi, không dài dòng văn tự hay khó hiểu gì cả đâu. Cho nên trong tu học lâu lâu chúng ta lại phải 'reset' làm mới lại bản thân xem có bị dính mắc hay chạy theo những kiến giải gì ngoài Kinh văn hay không, để còn điều chỉnh, thay đổi nếu cần thiết. Thật sự là, Pháp môn này càng 'tỉnh thức' [không bị tác động, chi phối] thì càng dễ tin sâu, càng dễ thành tựu vậy!

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 11. Quốc Giới Nghiêm Tịnh

Ngài Hoàng Niệm Tổ 

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.