Một Pháp Nhiếp Thọ Chúng Sanh Phổ Biến Nhất, Cứu Vớt Nhanh Chóng Không Ngằn Mé, Ba Căn Thượng Trung Hạ Đều Cùng Tu

NPSTD7

 

Một Pháp Nhiếp Thọ Chúng Sanh Phổ Biến Nhất, Cứu Vớt Nhanh Chóng Không Ngằn Mé, Ba Căn Thượng Trung Hạ Đều Cùng Tu

“Chẳng chấp”

Phật pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, không gì lớn lao chẳng bao gồm, không gì nhỏ nhặt chẳng nêu lên, vốn dùng nhất tâm để lập, tùy cơ nghi mà thuyết pháp. Tuy gọi là pháp xuất thế gian nhưng thật ra trọn đủ hết thảy thiện pháp thế gian. Tuy chẳng bỏ sót mảy may điều thiện nào, nhưng lại chẳng chấp vào một pháp (“Chẳng chấp” là chẳng cho đó là đức, chẳng tự mãn, cho là đủ. Nếu hiểu lầm chẳng tận lực thật hành là “chẳng chấp” thì lầm to mất rồi!) Chỉ vì không chấp trước nên hành đến rốt ráo. Xưa nay, những ai hạnh tốt đẹp hơn người đa phần là do học Phật đắc lực mà ra. Do vậy, từ ngay nơi cái tâm phàm phu bèn khế hợp Như Lai Tạng, đối với mỗi một pháp thảy đều thông đạt đến cùng tột cội nguồn, đích thân chứng được Thật Tướng. Tuy là lý u huyền sâu thẳm đến tột cùng, nhưng tùy theo căn cơ lớn - nhỏ đều có thể nhập được, trọn khắp thế gian không một ai chẳng kham tu, mà cũng không một ai chẳng thể tu được! Bởi lẽ con người có cùng một tâm này, tâm cùng một lý này vậy! Phải biết vô lượng pháp môn đều phải dùng tự lực đoạn Hoặc chứng Chân mới thoát sanh tử được; tìm lấy một pháp nhiếp thọ chúng sanh phổ biến nhất, cứu vớt nhanh chóng không ngằn mé, ba căn thượng trung hạ đều cùng tu, chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối, Thỉ Giác, Bổn Giác chẳng hai, chẳng đoạn phiền hoặc, chẳng cần phải đợi đến đời khác mà liễu sanh thoát tử siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này thì chỉ có mình pháp môn Tịnh Độ là được như vậy.

 

Tận lực giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận,...

Do vậy, bậc thượng căn như Văn Thù, Phổ Hiền, hạ căn như phường Ngũ Nghịch, Thập Ác đều là những căn cơ được nhiếp thọ bởi pháp môn Tịnh Độ. Do pháp này thật giản dị, thật dễ dàng, thật nhanh chóng, thật viên mãn, nên nó giống như đại địa chở khắp muôn vật, như biển cả dung nạp các dòng nước. Phàm những ai học Phật tu Tịnh nghiệp đều phải tận lực giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận, cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng xướng, vợ theo, chủ nhân từ, tớ trung thành, chỉ cốt sao chẳng thẹn với thiên chức thì mới tạo lập được cơ sở để học Phật. Tiến hơn bước nữa thì cung kính thọ Tam Quy, kính cẩn tu Thập Thiện, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện (Chuyện “đừng làm” và “vâng làm” phải căn cứ nơi khởi tâm động niệm mà luận, nếu chỉ luận trên mặt sự tướng thì là tự dối mình, lừa người vậy), kiêng giết, che chở loài vật, thương tiếc mạng sống loài vật, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Người như thế là của báu trong thế gian, sống được nổi tiếng, chết về cõi Phật.

 

Ngõ hầu ai nấy đạt được lợi ích thật sự

Lại phải biết dùng những chuyện ấy cảm hóa hết thảy từ thân đến sơ, từ gần đến xa, khiến cho hết thảy mọi người cùng thành thiện nhân, tu chân ngay trong cõi tục, sống trong cõi trần đảm nhận việc nước, cảm hóa những điều tàn bạo đã phát sanh, tiêu trừ họa loạn khi còn chưa chớm. Do vậy, phong tục thuần mỹ, nhân tâm biến đổi lớn lao, tai tiêu phước thạnh, quyến thuộc trời thường đến, công đức ấy chẳng thể diễn tả được! Nếu chỉ lăm lăm trộm lấy cái danh học Phật, chẳng chuyên chú học Phật thật sự, sẽ trở thành tội nhân đối với Phật pháp, chẳng những cái hư danh chẳng thể đạt được mà còn sẽ bị tai họa thật sự xảy đến về sau. Ví như trẻ nhỏ vô tri, đem Ma Ni Bảo Châu trị giá tam thiên đại thiên thế giới đổi lấy một miếng đường để ăn. Đường chẳng thể no bụng, lại còn bị mất chỗ nương cậy cho cả một đời, muốn chẳng chết vì đói lạnh há có được ư? Các cư sĩ ở Ngô Tùng mở ra Phật Giáo Cư Sĩ Lâm muốn cho hết thảy đồng nhân dốc chí tu trì, ngõ hầu ai nấy đạt được lợi ích thật sự, xin Quang viết mấy lời để làm bài cảnh sách. Nhân đấy bèn trình bày đại ý.

 

Xem đó thì biết Phật pháp là gốc của các pháp thế gian. Những kẻ câu nệ hẹp hòi kia do không có con mắt trí nên chẳng thể thấy thấu suốt, bèn nói Phật pháp diệt luân lý, vô ích cho con người, quốc gia, có khác gì kẻ mù từ lúc lọt lòng được hưởng ân che chở, chiếu soi của bầu trời và mặt trời nên được thành người, nhưng vì chẳng thấy bèn bảo là không có, chẳng đáng buồn lắm ư?

 

PPQTD115

Ảnh minh họa: A Di Đà Phật phóng quang tiếp dẫn.

Đoạn đầu: Tuy gọi là pháp xuất thế gian nhưng thật ra trọn đủ hết thảy thiện pháp thế gian. Tuy chẳng bỏ sót mảy may điều thiện nào, nhưng lại chẳng chấp vào một pháp (“Chẳng chấp” là chẳng cho đó là đức, chẳng tự mãn, cho là đủ. Nếu hiểu lầm chẳng tận lực thật hành là “chẳng chấp” thì lầm to mất rồi!) Chỉ vì không chấp trước nên hành đến rốt ráo.

Phật pháp nói chung tất cả các Pháp môn đều cùng mục đích giúp chúng sanh trước là "lìa khổ được vui" [liễu thoát sanh tử, bởi sanh tử là khổ đau], sau là rốt ráo viên mãn Phật đạo. Mỗi Pháp môn lại có các phương tiện cách thức khác nhau hòng đạt được điều này. Cho nên, Phật pháp thật sự là pháp xuất thế gian, nhưng bao gồm trọn đủ cả các thiện pháp thế gian. Vì sao như vậy? Vì đơn giản là cái gọi là 'thế gian' này thật ra cũng chỉ là một bộ phận các cảnh giới nào đó trong cửu giới chúng sanh trong thập pháp giới mà thôi. Do tùy nghi phương tiện nên các Ngài mới gọi để 'tách ra' như vậy để dễ hình dung mà thôi, rằng 'thế gian' [nhị thừa, hữu lậu, còn sanh tử] và 'xuất thế gian' [liễu thoát sanh tử]. Cho nên Phật pháp là bao hàm tất cả các thiện pháp trong thế gian lẫn xuất thế gian. Dạ xin nhấn mạnh là chỉ các 'thiện pháp' thôi nhé, còn các 'ác pháp' là không được liệt vào, đấy gọi là các pháp trái nghịch đạo, trái nghịch Phật pháp. Đã nói thì nói cho tới, vậy thì làm sao để phân biệt được cái nào là 'thiện pháp', cái nào là 'ác pháp' đây? Rất đơn giản, chỉ cần luận trên tiêu chí giúp chúng sanh "lìa khổ được vui" hay không mà luận vậy, với chúng sanh còn phàm phu trong sanh tử [tức còn 'khổ đau']. Còn đã vượt ra ngoài phạm vi ấy thì viên mãn thành Phật đạo làm đích ngắm.

Chỗ "chẳng chấp" [pháp] này Chư Tổ giải thích rõ ràng tường tận, đó là "chẳng cho đó là đức, chẳng tự mãn, cho là đủ". Tức là hiểu đơn giản là 'hành pháp' xong thì hãy 'quên đi', đừng lưu vào tâm làm gì [chẳng cho đó là đức], coi như trở về 'trạng thái' như lúc trước vậy [nên chẳng tự mãn, cho là đủ, dẫu có làm bao nhiêu đi nữa]. Chứ nếu chẳng thế, kiểu gì phàm phu chúng ta cũng càng làm thì càng 'chấp' [tức tăng trường ngã mạn, cho rằng ta đây đã làm được thế này thế kia]. Đây là điều rất nguy hiểm với người tu đạo, đặc biệt là với Pháp môn Tịnh Độ này [dần cậy vào Tự lực, dần 'đoạn' Tín tâm với Tha lực].

Câu "Nếu hiểu lầm chẳng tận lực thật hành là “chẳng chấp” thì lầm to mất rồi!" ý là sao? Hiểu đơn giản là, lúc làm thì không thể không 'chấp' [vào pháp đó], tận tâm tận sức mà làm, một khi xong việc rồi thì mới 'buông xả'. Nhiều người cứ hiểu 'chẳng chấp' là cứ vừa làm vừa 'chẳng chấp' pháp, cứ kệ, làm được bao nhiêu thì làm, sợ ảnh hưởng làm 'động tâm động trí' của ta. Kiểu làm như thế thì làm được việc gì cho ra hồn đây? Lại có nhiều bộ phận hành Phật sự một cách "chẳng chấp" theo ý trong Kinh là không chấp vào ba thứ: Người hành [ta], phương tiện [vật] và thọ giả [người nhận], như thế thì công đức mới viên mãn! Hiểu [ý Kinh] như vậy là đúng hay không đây? Nếu hiểu đơn giản như vậy thì Đức Phật thuyết pháp phải 'tùy nghi phương tiện độ chúng sanh' làm chi vậy? Cứ là 'bình đẳng' hệt như nhau mà thuyết pháp độ sanh cho rồi, cần chi phải 'phân loại, thứ lớp' ra mà 'độ sanh' chi cho nhọc vậy? Cho nên, lời Kinh ý Phật hiểu một cách đúng đắn để hành chẳng phải chuyện dễ dàng gì. Ví dụ như theo như ý chỗ này, chúng ta làm Phật sự 'ban phát, bố thí, cúng dường' cứ 'đều chang' như nhau cả, nơi đã no đủ hay thừa mứa vẫn giống như nơi đang thiếu thốn, khát ngưỡng; rồi hệ lụy là những nơi cần lại chẳng có [vì không đủ, không được], còn nơi dư đủ lại 'chẳng dùng'. Như vậy liệu rằng chúng ta đã "tận tâm tận sức" vì công việc đó hay chăng? Nếu nói theo ý rằng hành phải 'ba không' kia thì công đức mới viên mãn, như thế thì vô hình trung là đã chấp vào cái đầu tiên rồi [để viên mãn công đức cho 'ta']. Như thế thì đâm ra làm một cách thiếu trách nhiệm, chẳng "tận tâm tận sức" vì chúng sanh vậy. Cho nên, Chư Tổ dạy với chúng sanh còn phàm phu như chúng ta, tốt nhất trong quá trình làm thì cứ 'chấp trước, phân biệt' đi, để mang lại lợi ích chân thật nhất cho chúng sanh, chắc chắn điều này sẽ 'nhọc nhằn' hơn cách kia nhiều. Nhưng vì lợi lạc chúng sanh nên phải làm như vậy, chúng sanh càng lợi lạc công đức càng lớn. Đây mới thật là có công đức 'viên mãn' vậy, mới thật sự là 'chẳng chấp' vào ta vậy. Rồi một khi hoàn thành công việc rồi 'quên' đi, như vậy thì đâu có gì còn cho là 'đức', hay chấp vào 'người' hay 'vật' gì nữa.

Đoạn: Phải biết vô lượng pháp môn đều phải dùng tự lực đoạn Hoặc chứng Chân mới thoát sanh tử được; tìm lấy một pháp nhiếp thọ chúng sanh phổ biến nhất, cứu vớt nhanh chóng không ngằn mé, ba căn thượng trung hạ đều cùng tu, chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối,...

Các pháp môn đều phải tự lực đoạn Hoặc chứng Chân mới liễu sanh tử [nên không phải ai cũng làm được], riêng với Tịnh Độ môn, nhờ nương tựa Phật lực ban cho nên "ba căn thượng trung hạ đều cùng tu" [cùng thành tựu]. Thật ra, với Pháp môn này 'muốn dễ thì dễ, muốn khó thì khó' thôi. Dĩ nhiên suốt cả một đời hành đạo tinh tấn thì không thể nói rằng 'sung sướng' hay 'hưởng thụ' được rồi, mà phải 'mồ hôi' và 'nước mắt' [có thể] tuôn rơi, phải "tinh tấn khó nhọc một đời ngắn ngủi" này, chứ chẳng phải chuyện giỡn chơi được. Nhưng sự 'khó, dễ' ở đây là luận về lý, tức trong tâm [nghĩ thế nào]. Những người cho rằng thật khó khăn [để thành tựu], không phải ai cũng làm được, tỉ lệ thành công thấp không cao, hay phải căn cơ gì gì đó v.v... đó đều là những hành giả Tịnh Độ nhưng chuyên cậy vào... Tự lực [nên thiếu Tín tâm hay hiểu không đúng yếu tố Tha lực]. Còn những vị cho rằng tu Tịnh Độ 'không khó', ai cũng tu được, ai cũng có cơ hội thành công, dẫu là bậc Thượng, Trung hay Hạ, rõ ràng đây là các dạng 'chuyên cậy vào Phật lực' [Tín tâm vào Tha lực] nên mới suy nghĩ được như vậy. Điều đó đúng như Phật, Tổ chỉ dạy vậy. 

Chúng ta có thể lấy ví dụ một chút để thấy được cái 'dễ' [về lý] ở đây như thế nào, mà Chư Phật Chư Tổ luôn khẳng định đây là Pháp môn "phổ độ chúng sanh" vậy. Ví dụ, hành giả niệm Phật cầu sanh chỉ cần 'nhận biết' được rằng, Đức Phật A Di Đà đã "Có" lời Thề Nguyện tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật [chữ Có trong ngoặc để khắc ghi] nên chúng ta niệm Phật chắc chắn được Phật cứu độ. Rằng, phải có sự khác biệt giữa 'có' và 'không có' [lời Thề Nguyện ấy] chứ, đúng không? Chỉ cần 'biết' và Tin như vậy, thật đơn sơ, giản dị, rồi chân thật dụng công hành trì đến cuốn đời... Dạ vâng, chắc chắc sẽ là một 'ca vãng sanh' viên mãn, một biểu pháp thù thắng để lại cho hậu thế. Chắc chắn là như vậy! Thật giản dị, chân thật nhưng cũng thật thù thắng, vi diệu!

Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc và học tập.

 

Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên

Lời tựa Phát Ẩn cho Ngô Tùng Phật Giáo Cư Sĩ Lâm (trích đăng lần 2)

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.