Như Lai bi tâm chân thật thiết tha
Đức Như Lai điều ngự chúng sanh, tùy cơ thuyết pháp, tuy Quyền - Thật - Đốn - Tiệm bất đồng, Đại - Tiểu - Thiên - Viên khác biệt, nhưng cốt yếu đều là làm cho chúng sanh tự chứng Chân Như Phật Tánh sẵn có nơi bổn tâm mà thôi. Nhưng Phật tánh ấy sẵn có ngay trong tâm này, chẳng từ ngoài đến, chẳng do gì khác mà được, như lấy của báu sẵn có trong nhà tùy ý sử dụng, hiện thành. Vì thế, chứng điều ấy là chuyện hết sức dễ dàng! Hiềm rằng chúng sanh ở trong sanh tử đã lâu, mê hoặc quá sâu, ví như gương báu bị bụi phủ cả kiếp, muốn cho nó khôi phục bản thể, hiện tột cùng ánh sáng chiếu trời soi đất, cố nhiên chẳng phải đổ công lau chùi, mài giũa một hai ngày là có thể đạt được ngay. Như Lai bi tâm chân thật thiết tha, biết sự khó khăn của chúng sanh dùng tự lực để tự chứng, dù có tu trì nhưng vì phiền hoặc chưa đoạn, hễ phải thọ sanh một lần nữa khó khỏi lại bị mê. Từ đó, đọa lạc thì nhiều, siêu thăng ít ỏi.
Hoặc là tu trọn vạn hạnh để hồi hướng, hoặc chuyên trì Phật hiệu để cầu vãng sanh
Do vậy, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật ngõ hầu dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Người đã chứng thánh sẽ mau thăng lên địa vị bậc thượng; kẻ chưa đoạn Hoặc sẽ vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi. So với những ai chỉ cậy vào tự lực tu Giới - Định - Huệ cho đến khi liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh thì khó - dễ khác biệt một trời một vực. Vì thế, kể từ hội Hoa Nghiêm dẫn về, từ thuở tại Kỳ Viên diễn thuyết đến nay, ngàn kinh vạn luận chốn chốn chỉ quy, vãng thánh tiền hiền ai nấy đều hướng về. Đến khi pháp truyền sang Đông Chấn, Viễn Công đại sư xướng xuất tại Lô Sơn, quần hiền đương thời đều nhóm cả về, những người thông suốt đời sau đều quy hướng. Từ đấy, Tăng - tục bốn chúng hoặc là tu trọn vạn hạnh để hồi hướng, hoặc chuyên trì Phật hiệu để cầu vãng sanh. Đến khi lâm chung, chánh niệm rỡ ràng, hiện các tướng lành để vãng sanh, làm sao thấy hết, biết trọn cho được? Những gì Vãng Sanh Tập, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục ghi chép chỉ là một hai phần trong ngàn vạn phần đó thôi. Một trăm mấy mươi năm qua, người tu pháp này há có hạn lượng?
Dùng tâm [còn] Phiền Hoặc khế hợp Như Lai trí, [cảm ứng đạo giao]
Huống chi gần đây tầm mắt của bậc nhân sĩ rộng mở, hạng ngầm tu hiển hóa thật đông đảo. Trong số ấy, những người dùng tâm Phiền Hoặc khế hợp Như Lai trí, thoát khổ Sa Bà, dự vào hội Liên Trì càng đông hơn trước, há chẳng nên ghi chép thêm để rồi những chuyện ấy bị quên lãng hay sao? Cư sĩ Dương Huệ Kính ở Dư Diêu riêng sưu tập những truyện đó, đặt tên là Cận Đại Vãng Sanh Truyện. Ý ông muốn những chuyện vãng sanh thu thập sau này sẽ được gộp hết vào bản thảo, nên những danh từ xưng hô cứ giữ nguyên văn, không sửa chữa gì thêm, sao cho [cách hành văn] theo cùng một lối, cốt sao để tạo lòng tin, chứ không bỏ công chọn lựa, gọt giũa. Đã thâu thập được bấy nhiêu chuyện ấy xong, muốn khắc in, lưu truyền, xin tôi viết lời tựa.
Đường lối đặc biệt thì tự lực lẫn Phật lực đều có
Trộm nghĩ: Pháp môn tu trì có hai thứ bất đồng. Nếu cậy vào tự lực tu Giới - Định - Huệ để đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử thì gọi là “pháp môn theo đường lối thông thường”. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật để cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương thì gọi là “pháp môn đặc biệt”. Đường lối thông thường thì hoàn toàn cậy tự lực, còn đường lối đặc biệt thì tự lực lẫn Phật lực đều có. Nếu có công tu Định - Huệ đoạn Hoặc sâu xa nhưng không chân tín, nguyện thiết, niệm Phật cầu vãng sanh thì vẫn thuộc về tự lực. Nay dùng thí dụ để chỉ rõ: Đường lối thông thường giống như vẽ núi sông, ắt phải từng nét bút, từng vạch một mới dần dần vẽ thành. Còn [pháp môn] đặc biệt như chụp cảnh sông núi, dẫu cho mấy mươi tầng núi non um tùm, chụp một cái liền đầy đủ. Lại nữa, đường lối thông thường như đi đường bộ, người mạnh một ngày bất quá đi được một trăm mười dặm; còn pháp môn đặc biệt như cưỡi Luân Bảo của Chuyển Luân Thánh Vương trong một ngày liền có thể đến khắp bốn đại bộ châu. Chúng ta không có tư cách thành Phật ngay lập tức, lại không có thật chứng “đoạn được Kiến Hoặc, tùy ý chẳng tạo ác nghiệp”, nếu chẳng chuyên tu Tịnh nghiệp để hòng cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh thì chỉ e đến tột cùng đời vị lai vẫn cứ phải chịu sống chịu chết trong tam đồ lục đạo không cách gì thoát ra được! Chẳng đáng buồn ư? Nguyện những người cùng hàng với tôi đều sanh chánh tín.
Ảnh: Tượng A Di Đà Phật
Đoạn đầu: Như Lai bi tâm chân thật thiết tha, biết sự khó khăn của chúng sanh dùng tự lực để tự chứng, dù có tu trì nhưng vì phiền hoặc chưa đoạn, hễ phải thọ sanh một lần nữa khó khỏi lại bị mê. Từ đó, đọa lạc thì nhiều, siêu thăng ít ỏi.
Có điều rất lạ là "hễ phải thọ sanh một lần nữa khó khỏi lại bị mê"! Quên sạch, coi như phải làm lại từ đầu [hay gần như vậy], bao nhiêu công sức tu trì đời trước thành ra 'đổ sông đổ bể' hết vậy. Thật ra thì chẳng có gì là mất đi cả, cũng như chẳng có gì tự nhiên mà có, chúng đều được lưu trữ trong A lại gia thức của mỗi chúng sanh thôi. Nhưng có điều là việc tiếp nối [tu trì] thì hầu như rất ít ỏi, hiếm hoi [kiểu như xóc lô tô vậy, nhưng xác suất thấp hơn nhiều], nếu có phước duyên sâu dày từ đời trước để lại thì hầu như là 'tiêu sài phung phí' cho đã rồi tạo tội nghiệp chất chồng để 'đi vào' luân hồi chịu khổ tiếp. Cho nên nếu đời này tu rất tốt mà không liễu thoát được thì những đời sau thành ra... 'rất tiếc' ngay. Đây là sự thật chứ chẳng phải hù dọa gì cả!
Đoạn hai: Từ đấy, Tăng - tục bốn chúng hoặc là tu trọn vạn hạnh để hồi hướng, hoặc chuyên trì Phật hiệu để cầu vãng sanh. Đến khi lâm chung, chánh niệm rỡ ràng, hiện các tướng lành để vãng sanh, làm sao thấy hết, biết trọn cho được?
Chỗ "hoặc là tu trọn vạn hạnh để hồi hướng, hoặc chuyên trì Phật hiệu để cầu vãng sanh", so ra thì cái nào dễ vãng sanh hơn? Chắc chúng ta ai ai cũng đều đã rõ là chuyên trì Phật hiệu sẽ dễ vãng sanh hơn nhiều rồi. Thật sự thì Chư Phật trong Kinh giáo, Chư Tổ Sư trong các trước tác, khai thị đều khuyên dạy chúng sanh như thế. Nhưng chúng sanh thì căn tánh bất đồng, lại hoàn cảnh nhân duyên đưa đẩy, nên chẳng giống nhau trong cách hành đạo, luôn có sự khác biệt nhất định. Như vậy, "tu trọn vạn hạnh để hồi hướng" liệu có dễ thành tựu không? Như đã từng nói, với Pháp môn này quan trọng ở chỗ "chí tâm" [hoặc "nhất tâm"]. Đối với phàm phu, việc "tu trọn vạn hạnh" thì chẳng thể đạt được "nhất tâm" trong công phu đâu, việc đạt "chí tâm" [tin ưa] cũng rất khó, chỉ còn có "chí tâm hồi hướng" là may ra. Tức là Nguyện tâm phải cực kỳ tha thiết muốn về [lúc nào cũng mong mỏi được Phật đến rước, càng sớm càng tốt!]. Nhưng khổ nổi, những người thích tu tạp hạnh lại rất khó đạt được điều này [so với kẻ chuyên tu chuyên hạnh]! Vì sao lại như vậy? Điều này thì chắc những hành giả chuyên tu Tịnh Độ cầu giải thoát lâu năm đều đã cảm nhận được, không cần nói ra ở đây [hơi 'tế nhị']. Bởi thế nên các Ngài mới cực lực khuyến dạy chuyên tu là vậy. Tuy nhiên, đã nói thì phải nói cho tới, cho 'khế lý khế cơ', phù hợp thực tiễn, chẳng nên dùng 'văn tự, cảnh giới cao siêu' [mà thành sáo rỗng], rằng trong thời buổi hiện nay, hành giả Tịnh Độ ngoài việc chuyên trì Phật hiệu ra thì không nhiều thì ít cũng phải tu trợ hạnh làm trợ duyên cho Tịnh nghiệp, đó chính là như các Ngài hay nói là: "Đoạn ác, tu thiện [giữ giới, hành thiện]", "Giữ vẹn Luân - Thường, trọn hết bổn phận", "Tự lợi, lợi tha", "Cạn lòng thành, tận lòng kính", "Buông bỏ [ngũ dục]", lễ lạy Bồ Tát Đại Sĩ v.v... Thật sự, thời buổi hiện tại này hành giả Tịnh Độ không thể thiếu những điều này [trừ các trường hợp đặc thù như: các cụ già yếu, hay các ca hộ niệm sắp ra đi...], để làm trợ duyên trợ lực cho tu Tịnh nghiệp được vững vàng, kiên cố. Cho nên có nhiều vị các Ngài lại phải thị hiện xuống thế gian lần nữa để chỉ bày cặn kẻ thêm [ngoài những điều đã dạy] nhằm làm cho phù hợp với nhân duyên hoàn cảnh, con người thời nay vậy. Chứ còn Tông chỉ tông yếu của Pháp môn thì bất di bất dịch không hề thay đổi, bất luận thời gian, nơi chốn, quốc độ... Có chăng là tùy thời kỳ mà dùng các phương tiện thiện xảo khác nhau mà thôi [để dẫn, nhập, hành đạo].
Tuy nhiên, cái gì cũng có hệ lụy của nó, một khi đã 'xen tạp' ít nhiều thì không thể không "chí tâm" được [nếu muốn thành tựu]. Chứ còn nếu ai chỉ 'thuần nhất một câu Phật hiệu' [đúng nghĩa đen!] mà hành trì mãi thì chắc chắc thành tựu vãng sanh trong đời, bởi được như thế thì dẫu chẳng muốn 'chí tâm' cũng không được [chắc chắn đạt 'chí tâm']! Việc này thì thời xưa thì nhiều, còn thời nay thì nhiều trên... lý thuyết thôi [hoặc là trên các ca Hộ Niệm, vì lúc đó phải như vậy]. Do đó, thời nay các Ngài mới cực lực khuyên dạy rằng tu Tịnh Độ thì phải "Tín Nguyện, Niệm Phật", "Dùng Tín Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật" [tức là đặc biệt chú trọng Tín Nguyện] là vậy. Hay nói cách khác, rằng thời nay không thể không Y Giáo Phụng Hành lời Kinh Phật thuyết cho được. Còn cái thời "chẳng cần biết gì [ngoài câu Phật hiệu]" đã qua lâu rồi, đã trở thành 'dĩ vãng'. Thời nay mà nói "chẳng cần biết gì" mà tu riết một thời gian sẽ thành ra đúng là 'chẳng biết [tu] gì [là trọng tâm]' luôn, bởi tu quá nhiều thứ vậy.
Trong đoạn cuối: Đường lối thông thường thì hoàn toàn cậy tự lực, còn đường lối đặc biệt thì tự lực lẫn Phật lực đều có.
Chỗ "còn đường lối đặc biệt thì tự lực lẫn Phật lực đều có", vậy tự lực ở đây là gì? Chắc chắc đó là Tín Nguyện [tâm lực], Niệm Phật [công phu hành trì], cùng những trợ duyên như đã nói bên trên. Chứ chẳng phải nói Pháp môn này là "cậy vào Phật lực" rồi 'chẳng cần làm gì hết' cũng được thành tựu [rồi sanh nghi tâm], dạ hoàn toàn không phải vậy!
Các đoạn khác chúng ta cùng đọc và học tập.
Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên
Lời tựa sách Cận Đại Vãng Sanh Truyện (trích đăng, lần 2)
Đại Sư Ấn Quang