Nghe Danh Đắc Nhẫn

NPSTD7

 

Nghe Danh Đắc Nhẫn

Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện bốn mươi sáu: Đắc đà-ra-ni; nguyện bốn mươi bảy: Nghe danh đắc Nhẫn; nguyện bốn mươi tám: Chứng Bất Thoái ngay trong hiện đời)

Giải:

(...)

Một câu Phật hiệu đây chính là Thật Tướng, chính là toàn thể của pháp giới, chính là thể tánh bình đẳng của các pháp. Chỉ cần niệm niệm tiếp nối, niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm, nên bảo là “đắc bình đẳng trụ”. Tâm hạnh như thế là “Bồ Tát hạnh”, lần lượt dạy dỗ cho nhau cùng quay về Cực Lạc, ban bố cho mọi chúng sanh cái lợi chân thật nên bảo là “tu Bồ Tát hạnh”. Tu hành như vậy tự nhiên trọn vẹn hết thảy cội rễ của công đức Phật quả nên bảo là “cụ túc đức bổn” (đầy đủ cội đức).
Sách Hội Sớ giảng chữ “đức bổn” (cội đức) như sau:
“Lục Độ của Bồ Tát là gốc của hết thảy công đức nên gọi là cội đức. Chọn lựa, giữ lấy quả hiệu (danh hiệu của Quả Giác, tức là danh hiệu Nam-mô A Di Ðà Phật) lưu xuất lục độ vạn hạnh là nguồn gốc cho mọi đức, nên gọi là đức bổn”.
Trong câu “nhất nhị tam Nhẫn” (một, hai, hay ba thứ Nhẫn), chữ Nhẫn (忍) có nghĩa là chịu đựng. Bản Ngụy dịch ghi như sau: “Ðệ nhất, đệ nhị, đệ tam pháp nhẫn”. “Pháp nhẫn”: Pháp là lý đã chứng đắc, tâm an trụ nơi pháp là Nhẫn. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển chín giảng: “Huệ tâm an pháp thì gọi là Nhẫn”.

Nếu dựa theo kinh văn, quả thật “trong ba thứ Nhẫn ấy ắt phải có Vô Sanh Pháp Nhẫn” là điều chẳng thể còn nghi ngờ chi nữa. Nguyện thứ ba mươi bốn trong bản Ngụy dịch được ghi như sau: “Thiết ngã đắc Phật, thập phương vô lượng bất khả tư nghị chư Phật thế giới chúng sanh chi loại, văn ngã danh tự, bất đắc Bồ Tát Vô Sanh Pháp Nhẫn, chư thâm tổng trì giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong mười phương vô lượng chẳng thể nghĩ bàn các thế giới Phật nghe danh hiệu tôi mà chẳng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát, các tổng trì sâu xa, thì chẳng lấy Chánh Giác).

Bản Tống dịch cũng ghi: “Văn ngã danh giả, ứng thời tức đắc Sơ Nhẫn, Nhị Nhẫn, nãi chí Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nghe danh hiệu tôi thì ngay lập tức đắc Sơ Nhẫn, Nhị Nhẫn cho đến Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Rõ ràng, pháp Nhẫn thứ ba được nói trong lời nguyện này phải là Vô Sanh Pháp Nhẫn!
Hơn nữa, những câu trong sách Luận Chú như: “Hễ thấy đức Phật ấy thì những vị Bồ Tát chưa chứng tịnh tâm (chỉ những vị Bồ Tát từ Sơ Ðịa đến Thất Ðịa) liền rốt ráo chứng được Pháp Thân bình đẳng”. Sách còn chép: “Bình đẳng Pháp Thân là pháp tánh sanh thân Bồ Tát từ Bát Ðịa trở lên”“Nghe danh hiệu chí đức của A Di Ðà Như Lai thì rốt ráo được khẩu nghiệp bình đẳng”. Những câu như vậy đủ chứng minh nghe danh hiệu Phật liền chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Ngài Vọng Tây còn nói: “Hỏi: Vì sao do thế lực của việc nghe danh hiệu lại chứng được Vô Sanh? Ðáp: Là do Phật nguyện lực vậy, như Thập Trụ Luận bảo: ‘Quá khứ vô số kiếp, có biển công đức danh hiệu Phật. Mỗi vị Phật trong thập phương hiện tại thành Chánh Giác đều là từ lời phát nguyện ‘nghe danh hiệu được thành Phật’ ấy [mà được thành Phật]”.

Những luận chứng vừa dẫn trên đã trình bày Tha Lực một cách khéo léo: Người nghe danh hiệu Phật được Phật nguyện gia bị nên chứng được Vô Sanh Nhẫn, quyết định sẽ thành Phật, nhưng Nghe không có nghĩa là chỉ nghe suông, mà còn phải phát khởi cái hạnh như Niết Bàn Sớ, quyển hai mươi bảo: “Nếu nghe đến hai chữ Thường Trụ thì đời đời chẳng đọa. Có nhiều thứ nghe, nếu có thể suy nghĩ sâu xa, thực hành đúng như lời dạy thì đời đời chẳng bị đọa”. Ý câu trên là: Nghe xong phải suy nghĩ sâu xa và tu hành đúng như lời dạy thì đời đời mới chẳng bị đọa. Như vậy, một chữ Nghe còn hàm nghĩa Tin Nhận chẳng phải là nghe lọt qua tai rồi thôi.
“Nhất nhị tam Nhẫn” (một, hai, hay ba thứ Nhẫn) được nêu trong lời nguyện này chính là ba thứ Nhẫn sẽ nói trong phẩm mười lăm Bồ Ðề Đạo Tràng: Một là Âm Hưởng Nhẫn, hai là Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Sách Quán Vô Lượng Thọ Kinh [Diệu Tông] Sao, quyển năm giảng như sau:
“1. Âm Hưởng Nhẫn là do âm thanh, tiếng vang mà ngộ giải được chân lý.
2. Nhu Thuận Nhẫn là huệ tâm nhu nhuyễn, thuận theo chân lý.
3. Vô Sanh Pháp Nhẫn là chứng được thật tánh của vô sanh nhưng lìa khỏi các tướng. Ðây là chỗ cao tột nhất trong việc ngộ đạo”.
Ba thứ Nhẫn này sẽ được giảng tường tận trong phẩm thứ mười lăm.

 

nddn11

Ảnh minh họa: "Xá Lợi Phất, ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi là “Kinh tất cả các đức Phật hộ niệm”? Xá Lợi Phất, nếu có người con trai lành, người con gái lành nào nghe được kinh nầy mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của các đức Phật, thì những người con trai lành, những người con gái lành đó đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được chẳng thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cho nên, Xá Lợi Phất, các người đều phải tin nhận lời của ta và các đức Phật nói." - Kinh A Di Đà bằng tranh

Đoạn chú giải trích lược này dành cho Nguyện 47 "Nghe danh đắc Nhẫn". Dĩ nhiên đây là nói cho các bậc Bồ Tát ở các thế giới khác, chứ chẳng phải là hàng phàm phu, nhị thừa. Chúng ta đọc để có thêm kiến thức, nghĩa lý. Chúng ta thấy rằng một danh hiệu Phật tưởng là dễ được nghe nhưng rõ ràng chẳng phải dễ, ngay đến các vị tu đến hàng Bồ Tát cũng không phải ai cũng được nghe [và đắc được Nhẫn]. Chúng ta đây hằng ngày được nghe và niệm danh hiệu Phật, đó cũng là phước báu rất lớn, do nhiều đời nhiều kiếp tu tập nay mới bắt gặp được.

Chúng ta tiếp tục nói một chút về việc gầy dựng Tín tâm Nguyện tâm cho chân thật thiết tha. Chúng ta nói về cách thứ 2: "Niệm Phật, nương Nguyện lực của Phật, không ai không được vãng sanh". Vì sao được như vậy? Đó là vì Niệm Phật là hạnh của Bổn Nguyện, nên hành giả niệm Phật cầu sanh là được nương Nguyện lực của Phật để cầu sanh về. Mà nương Di Đà Nguyện lực để cầu sanh về thì không ai không được toại ý [vãng sanh]. Đó là do đâu? Do là vì năng lực bất khả tư nghì của Di Đà Nguyện lực. Ngài đã tuyên thệ như thế [tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật] và đã thành tựu, cho nên 'bằng bất cứ giá nào', bất cứ trường hợp nào [ngay đến phường Ngũ nghịch thập ác] Ngài cũng đều 'ra tay' cứu độ hết cả. Nói chúng, tất cả [sức mạnh này] đều xuất phát từ lời Thề Nguyện ban đầu [và tu hành đã thành tựu] mà ra cả. Điều này hành giả chúng ta không thể không tin nhận. Thứ nhất vì Bổn Nguyện chân thật không hư dối [vì Phật đã thành Phật], thứ hai ấy chính là từ kim khẩu Đức Thế Tôn thuyết ra trong Kinh giáo: "Mười niệm ắt vãng sanh", "Nương oai đức Phật tất siêu việt"...

Đó chính là cách thứ 2, hành giả niệm Phật, "nương Phật lực, chắc chắn được sanh". Còn với cách 1, chúng ta đã cùng học tập khá nhiều: "Hành giả tin Bổn Nguyện, niệm Phật, chắc chắn được vãng sanh". Các Ngài hay dùng là "nương theo Bổn Nguyện", tức y cứ vào nội dung Bổn Nguyện ["Mười niệm ắt vãng sanh"] mà chân thật tin tưởng chẳng nghi, hành trì, không ai không được thành tựu [vạn người tu, vạn người về]. Nếu giả sử Phật để sót lọt ta, một chúng sanh niệm Phật cầu sanh, thì đâm ra Bổn Nguyện bị hư dối, bị thay đổi, xê dịch hay sao [vì mười niệm đã được sanh]? Điều này là không thể, không bao giờ xảy ra! Cho nên chúng ta chân thật niệm Phật cầu sanh, chắc chắn được sanh về.

Nói chung, các cách khác nhau đều để giúp cho hành giả niệm Phật cầu sanh phát khởi được Tín tâm chân thật "Niệm Phật ắt vãng sanh", tức tin vào chuyện vãng sanh của mình, chẳng còn nghi ngờ nữa [nhờ niệm Phật]. Rồi chân thật dùng Tín Nguyện sâu này trì danh hiệu Phật, gầy dựng giữ gìn cả đời như vậy không thoái chuyển, đảm bảo không ai không được sanh về. Đây chính là Tông chỉ tông yếu của Pháp môn. Cho nên, bất luận là ai, từ Đại Bồ Tát tái lai cho đến các vị Giảng Sư hay Thiện tri thức hay đến hàng phàm phu tục tử, muốn hoằng truyền đúng Chánh Pháp Phật truyền trao đều không thể thiếu điều này. Diễn nói [và tu tập] Tịnh Độ mà không nói rõ Tông chỉ tông yếu này [bên cạnh những nội dung khác] thì hoặc là 'chưa' [vào sâu Tịnh Độ tông] hoặc là chẳng như lý như pháp [tức Y giáo phụng hành] lời Phật thuyết. Hay nói cách khác là chẳng khế lý khế cơ [dành cho chúng sanh thời Mạt sâu này]. Bởi vì như các Ngài nói, Bổn Nguyện vốn phát ra là vì phàm phu, kiêm luôn bậc Thánh nhân vậy. Cho nên, hành giả Tịnh Độ, được nghe [và tín thọ nhận được] những điều này, bất luận là lúc nào, bình thời hay lúc cuối [hộ niệm đúng pháp] đều có được đại lợi ích chân thật giải thoát. Chúng ta tùy nhân duyên mà sáng suốt chọn lựa, học tập, hành trì. Nhưng nên nhớ đợi đến lúc cuối [cận tử nghiệp], mọi chuyện có thể sẽ rất khác so với bây giờ đấy, nhiều khi không còn làm chủ được nữa, nói chung là rất khó 'đoán định' như các Ngài nói. Vả lại, chúng ta cũng đâu biết 'lúc cuối' của mình là lúc nào nữa [mà chờ đợi], đúng vậy không?!

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ (trích lược)

Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.