Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, phát Bồ Đề tâm, tu chư công đức, phụng hành lục Ba La Mật, kiên cố bất thoái. Phục dĩ thiện căn hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc, nhất tâm niệm ngã, trú dạ bất đoạn. Lâm thọ chung thời, ngã dữ chư Bồ Tát chúng, nghênh hiện kỳ tiền, kinh tu du gian, tức sanh ngã sát, tác A Duy Việt Trí Bồ Tát. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi liền phát Bồ Ðề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu Ba La Mật kiên cố bất thoái, lại đem các thiện căn hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, nhất tâm niệm tôi, ngày đêm chẳng ngớt. Lúc lâm chung, tôi cùng các Bồ Tát chúng hiện đến đón trước mặt, trong khoảnh khắc liền sanh sang cõi tôi, thành bậc A Duy Việt Trí Bồ Tát. Chẳng thỏa nguyện này, chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện mười chín: Nghe tên phát tâm; nguyện hai mươi: Lâm chung tiếp dẫn)
Xét ra, vì nguyện thứ hai mươi sáu là “nghe danh được phước” và nguyện bốn mươi bảy là “nghe danh đắc Nhẫn”, thì nguyện thứ mười chín “nghe danh phát tâm” này phải nên được hiểu là: Do nghe danh hiệu của Phật, được Phật gia bị nên phát tâm Bồ Ðề. Hiểu như vậy sẽ liền thấy rõ công đức của danh hiệu A Di Ðà chẳng thể nghĩ bàn, sức hoằng thệ nguyện của đấng Nguyện Vương chẳng thể nghĩ bàn.
“Tu chư công đức… trú dạ bất đoạn” (Tu các công đức... ngày đêm chẳng ngớt) là đại hạnh sẽ làm sau khi phát tâm. Câu này và câu trước đó hợp thành toàn văn của nguyện thứ mười chín: Do nghe danh hiệu Phật Di Ðà nên phát tâm và tu các đại hạnh.
Trong lời nguyện, chữ “lục Ba La Mật” chỉ Lục Độ. Ðộ (度) là vượt qua được biển sanh tử đạt tới bờ Niết Bàn. Sáu độ là Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Ðịnh và Bát Nhã. Lục Ðộ bao trùm vạn hạnh.
“Kiên cố bất thoái” nghĩa là các đại nguyện, đại hạnh trên quyết định chẳng lay động, vĩnh viễn chẳng lui sụt. Như phần kệ tụng đã nói: “Ngã hạnh quyết định kiên cố lực, duy Phật thánh trí năng chứng tri, túng sử thân chỉ chư khổ trung, như thị nguyện tâm vĩnh bất thoái” (Hạnh tôi sức kiên cố quyết định, chỉ Phật thánh trí chứng biết nổi, dẫu thân ở trong các chốn khổ, nguyện tâm như vậy trọn bất thoái) thì kiên cố có nghĩa là bất thoái.
Trong câu “nhất tâm niệm ngã” (nhất tâm niệm tôi), chữ “nhất tâm” như phần trên đã giải thích: Nhất tâm chỉ thật thể Chân Như của vạn hữu. Nay xét trong kinh này, nhất tâm là tín tâm kiên định, chẳng bị các tâm khác não loạn nên gọi là nhất tâm. Sách Giáo Hạnh Tín Chứng Văn Loại nói: “Tín tâm chính là nhất tâm. Nhất tâm chính là lòng tin chân thật. Vì vậy, luận chủ khăng khăng nói nhất tâm”. Sách Thám Huyền Ký, quyển ba cũng nói: “Nhất tâm là tâm không dị niệm”. Sách Chỉ Quán, quyển bốn lại viết: “Nhất tâm là lúc tu pháp này, một dạ chuyên chí, tâm chẳng duyên theo điều gì khác” (tức là trong tâm chẳng nghĩ đến sự vật nào khác).
Hơn nữa, nhất tâm lại có hai thứ: Sự và Lý. Không xen lẫn niệm nào khác là Sự nhất tâm, nhập Thật Tướng là Lý nhất tâm.
Câu “nhất tâm niệm ngã” trong kinh này gồm cả Sự lẫn Lý. Người tu học Tịnh nghiệp hiện tại chỉ cần tin sâu, nguyện thiết, xưng niệm danh hiệu thì đã là “nhất tâm niệm ngã”. Hành được như đại sư Thiện Ðạo dạy: “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, chẳng luận thời tiết, xa gần, niệm niệm chẳng bỏ” thì chính là nhất tâm niệm Phật do vì từ Sự nhập Lý, nhưng toàn thể của Sự lại chính là Lý vậy.
Nguyện thứ mười chín là nhân, nguyện thứ hai mươi là quả. Nếu ai phát tâm niệm Phật đúng như nguyện thứ mười chín dạy thì khi lâm chung, Phật Di Ðà cùng hàng Bồ Tát thánh chúng trong thế giới Cực Lạc sẽ hiện đến trước mặt tiếp dẫn. Trong khoảnh khắc, người ấy liền vãng sanh Tịnh Ðộ Cực Lạc làm bậc Bồ Tát A Duy Việt Trí (bất thoái chuyển). Trên đây là nguyện thứ hai mươi: “Lâm chung tiếp dẫn”.
Nguyện hai mươi thể hiện sâu xa diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn của phương tiện Tha Lực trong Quả giáo. Kẻ phàm phu nghiệp chướng chất chồng lại có thể mang nghiệp đi vãng sanh; đấy toàn là do nguyện này của Phật Di Ðà, do sức từ bi đại lực nhiếp thọ của thánh chúng hiện diện trong lúc lâm chung.
"Nhất tâm niệm ngã, trú dạ bất đoạn", nếu ai đạt được điều này (lúc bình thời), cùng những điều khác..., thì lâm chung chắc chắn Phật đến rước.
Rõ ràng đây là những điều kiện chẳng hề dễ dàng chút nào với phần đông phàm phu chúng ta. Vậy thì sao?
Rất may, Đức Phật Đại từ Đại bi ban cho chúng sanh Đại Nguyện thứ 18, hành giả chỉ cần 'giữ lửa' Tín - Nguyện - Trì Danh đến cuối đời là đạt ngay cái quả Nguyện thứ 20 (Lâm chung tiếp dẫn).
Qua so sánh hai Đại Nguyện trên đây chúng ta mới thấy cái Tín tâm nó quan trọng như thế nào! Đó chính là một dạng Nhất tâm [nên mới có thể gánh vác vai trò quan trọng như thế], giúp chúng ta 'dễ thở' hơn rất nhiều!
(Ảnh: Chùa đêm)
Trích, lục: Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện
Ngài Hoàng Niệm Tổ