Như Do Ngồi Thuyền Lớn Bèn Vượt Được Biển, Chứ Chẳng Phải Do Bản Lãnh Của Chính Mình Mà Được Như Vậy

NPSTD7

 

Như Do Ngồi Thuyền Lớn Bèn Vượt Được Biển, Chứ Chẳng Phải Do Bản Lãnh Của Chính Mình Mà Được Như Vậy

Các Tổ Sư, các thiện tri thức nhiều đời đều cực lực đề xướng

Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều kham làm Phật, nhưng do mê trái tự tánh nên luân hồi sanh tử chẳng lúc nào xong. Như Lai muốn cho họ khôi phục bản tâm nên tùy thuận cơ nghi, tuyên nói đủ mọi pháp. Nhưng muốn cậy vào tự lực để tu trì, trong đời này chứng rốt ráo Chân, đoạn tận Hoặc để thoát khỏi luân hồi, hòng liễu sanh tử thì trong đời Mạt, thật khó thấy được mấy ai. Chỉ có tu pháp môn Tịnh Độ thì bất luận thượng trung hạ căn, già, trẻ, trai, gái, chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, dùng tâm chí thành niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, kèm thêm chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, đến khi lâm chung bèn được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương, vạn người chẳng sót một ai! Do cậy vào Phật từ lực nên đạt được lợi ích lớn lao này, như do ngồi thuyền lớn bèn vượt được biển, chứ chẳng phải do bản lãnh của chính mình mà được như vậy. Vì thế, các vị Bồ Tát, các Tổ Sư, các thiện tri thức nhiều đời đều cực lực đề xướng pháp này, bởi đây chính là đường tắt để liễu sanh thoát tử, là pháp trọng yếu để thành Phật đạo vậy!

 

Tự hành, dạy người [khuyên lơn cha mẹ]

Cư sĩ Nhạc Vận Sanh là cha ông Bộ Vân, tên là Thái Nguyên, tự là Vận Sanh, thờ cha mẹ chí hiếu, ưa thiện chuộng nghĩa, thiên tánh trung hậu, không gì chẳng thích đáng. Trong mấy năm gần đây, Bộ Vân sanh lòng chánh tín kha khá đối với Phật pháp, ăn chay niệm Phật, một mực chân thành, nghiêm cẩn. Nhân đấy, khuyên lơn cha mẹ cùng ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, cũng như giải nói những sách Tịnh Độ rõ ràng, đơn giản dễ hiểu, khuyên họ thường xem.

 

Từ đấy, tâm tâm ức niệm, mong được thỏa nguyện [Tín nguyện trì danh, tự tại vãng sanh]

Cha ông biết tự tâm sẵn có Phật tánh, nhưng vì Hoặc nghiệp ngăn lấp nên chẳng thụ dụng được; may là có pháp môn cậy vào Phật từ lực này khiến cho lũ chúng sanh căn cơ hèn kém như chúng ta, tuy thiện căn ít ỏi mà ngay trong đời này liền được vượt ngang ra khỏi tam giới, cao dự chín phẩm sen, còn may mắn nào hơn! Từ đấy, tâm tâm ức niệm, mong được thỏa nguyện. Đến đầu tháng Bảy, cụ thị hiện bệnh nhẹ, sáng ngày mồng Tám dậy sớm, niệm Phật xong, dặn dò Bộ Vân mau sắm sửa tang phục, quan tài: “Ta sắp đi rồi!” Đợi tang phục, quan tài chuẩn bị xong xuôi, cụ bèn tắm gội, thay áo, đi nằm. Bộ Vân khuyên răn người trong nhà: “Đừng khóc lóc, kẻo cụ bị mất chánh niệm, hãy đồng thanh niệm Phật để giúp cụ vãng sanh”. Lại khuyên cha trong tâm hãy niệm thầm theo. Tuy chẳng nghe tiếng nhưng miệng cụ vẫn máy động, lúc lâu sau thấy ngừng thì đã mất rồi! Lại niệm thêm ba giờ nữa mới bắt đầu than khóc. Vẻ mặt cha vẫn mỉm cười, trong nhà thoảng mùi hương lạ, để ba ngày mới liệm, tướng mạo hãy như còn sống. Cụ được vãng sanh là điều có thể đoan chắc! Bộ Vân cùng người nhà hằng ngày niệm Phật trước bàn linh để cầu cụ được tăng cao phẩm sen, mau chứng Vô Sanh hòng báo đáp ân cù lao, trọn hết phận con.

 

Bất luận hoàn cảnh, căn cơ
Lại nữa, ông Bộ Vân tài nhỏ chức kém, tiền lương ít ỏi, thờ cha mẹ nuôi vợ con khá chật vật, may nhờ chú họ là tướng quân Mao Thiếu Phủ bù đắp nhu cầu cho. Tang phục, quan tài, chi phí tang ma lần này đều do Thiếu Phủ bỏ ra. Thiếu Phủ chánh trực, công bằng, liêm khiết, sáng suốt, trong sạch, khí tiết cao cả, trung với nước, hiếu với cha mẹ, nghĩ đến tình thương yêu của người trước nên coi Bộ Vân như con, Bộ Vân cảm kích trước tình đùm bọc nên cũng coi Thiếu Phủ như cha. Nhân duyên ăn chay của Bộ Vân thật ra cũng do Thiếu Phủ mà ra. Nếu như Thiếu Phủ do Bộ Vân mà có thể dốc lòng tu Tịnh nghiệp, ăn chay niệm Phật hầu sống dự vào bậc thánh hiền, mất về cõi Cực Lạc thì lợi ích đạt được càng rạng rỡ, trọn vẹn đẹp đẽ đôi đường. Do vậy, bèn ghi lại để khuyên đời.

 

hthh11

Ảnh: Hòa Thượng Hải Hiền đang hái trái hồng.

Cả đoạn đầu: Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều kham làm Phật, nhưng do mê trái tự tánh...

Thật sự, chỉ đoạn văn ngắn này có thể coi như bao hàm trọn bộ "nội dung" của Tịnh Độ Tông. Từng câu, từng chữ này chúng ta đừng xem thường, cũng đừng 'bán tín bán nghi', hay cho là chỉ [thuộc về] văn tự, lý luận. Mà những lời này là hoàn toàn chân thực, "như thuyết" [Như Lai] mà nói vậy.

Ví dụ, câu "Chỉ có tu pháp môn Tịnh Độ thì bất luận thượng trung hạ căn, già, trẻ, trai, gái, chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, dùng tâm chí thành niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, kèm thêm chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, đến khi lâm chung bèn được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương, vạn người chẳng sót một ai!". Thật sự vậy, "chẳng sót một ai"! Điểm trọng yếu ở đây chính là chỗ "đầy đủ" lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, rồi từ tâm lực này mà hành trì, dụng công niệm Phật [chắc chắn sẽ không bao giờ giải đãi đâu], giữ vững như thế trọn đời. Được như thế thì đúng là, bất luận sang hèn, già trẻ..., bất luận thượng trung hạ căn, bất luận công phu sâu cạn, tất thảy đều vãng sanh liễu sanh thoát tử ngay một đời này, và chắc chắn "sẽ được thành Phật" trong tương lai.

Cho nên, tu Tịnh Độ cần trọng yếu ở chỗ gầy dựng, giữ gìn Tín tâm, Nguyện tâm cho thật chân thành, thiết tha. Đặc biệt là Tín tâm, bởi như các Ngài nói "có niềm tin chân thành thì ắt có Nguyện thiết tha". "Nguyện thiết tha" ở đây là phải từ nơi tâm mà luận, chứ không phải nói bắt buộc buông bỏ tất cả là "nguyện thiết tha", mà là [tâm] sẳn sàng xả bỏ tất cả về với Phật bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu [cái này nếu không có Tín tâm đầy đủ thì không cách gì phát khởi được cái tâm này!]. Bởi vậy, nếu có ai đó nói rằng: 'Tôi đây đã thật sự Tín tâm, nhưng chỉ còn nguyện chưa thiết, có vẻ còn nhiều thứ thế gian này chưa thể buông xuống được [nên sợ chướng ngại lâm chung vãng sanh]'. Nói như vậy tức là cũng thể hiện Tín tâm chưa đầy đủ, chưa 'chạm' tới giới hạn mà trong Kinh nói ["bất sanh nghi hoặc"], cần phải gầy dựng, vun bồi thêm lên. Thật sự, chúng ta cần nhấn mạnh chỗ này, rằng lời Phật thuyết [Đức Thích Ca], lời Phật Thệ Nguyện [Đức Di Đà] thì tuyệt đối "không bao giờ hư dối" cả, tuyệt đối không bao giờ! [vì các Ngài đều đã thành Phật, nên tất cả lời nói, lời thệ nguyện đều đã được chứng thành]. Chúng ta chỉ cần đừng bao giờ quên điểm này thì ắt sẽ nhanh chóng thành tựu được Tín tâm Nguyện tâm của mình một cách chân thật đầy đủ, kiên cố chắc chắn, "bất sanh nghi hoặc". Rồi ra sức hành trì, giữ gìn như thế mãi. Tự hành, khuyên người đều như thế, lợi ích chúng sanh không thể nghĩ bàn. Bởi đây chính là một trong những cách gầy dựng Tín Nguyện phổ quát nhất, gần gũi dễ hiểu nhất mà các Chư Tổ hay sử dụng để khuyên dạy cho tất cả chúng ta vậy.

Những đoạn văn tiếp theo chúng ta đọc kỹ, cùng học tập, sẽ thọ nhận nhiều lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.

 

Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên

Bi ký về chuyện vãng sanh của cư sĩ Nhạc Vận Sanh

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.